Bạn đọc cùng giao lưu với các khách mời Báo đại biểu nhân dân : Ủy viên Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Phùng Đức Tiến; Viện trưởng Viện Ứng dụng công nghệ, Bộ Khoa học - Công nghệ Trần Xuân Hồng; Phó vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Khoa học và Công nghệ Đỗ Việt Trung.
Để Luật KH và CN (sửa đổi) đi vào cuộc sống
Trần Anh Tâm, Quỳnh Lưu, Nghệ An: Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi) sẽ có hiệu lực vào ngày 1/1/2014. Vậy để luật đi vào cuộc sống cần triển khai những giải pháp đồng bộ nào? Theo ông đâu là vấn đề khó khăn nhất trong triển khai thực hiện?
Ủy viên Thường trực Phùng Đức Tiến: Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi) đã được QH thông qua tại Kỳ họp thứ Năm, và sẽ có hiệu lực vào ngày 1/1/2014. Để Luật đi vào cuộc sống, điều đầu tiên cần phải hoàn thiện và ban hành các văn bản dưới luật gồm Nghị định, các thông tư hướng dẫn cụ thể hóa những quy định và những điều trong Luật giao Chính phủ quy định. Đồng thời, tổ chức thông tin, tuyên truyền sâu rộng trong các cấp các ngành và toàn thể nhân dân để Luật có thể đi vào cuộc sống. Ngoài ra, cần phải chuẩn bị tốt các nguồn lực bảo đảm cho quá trình triển khai các quy định của Luật như nguồn kinh phí, đội ngũ, cơ sở vật chất... Hệ thống cơ quan giám sát thực hiện, các chế tài bảo đảm cho Luật được thực hiện và kịp thời xử lý các vướng mắc.
Trong quá trình triển khai thực hiện, ngoài nhận thức của hệ thống chính trị về vai trò của KH-CN trong phát triển KT-XH của đất nước, thì cần phải nói đến kinh phí để có thể triển khai Luật. Trong đó, nguồn kinh phí đầu tư cho KH-CN phải được bảo đảm; thủ tục thanh quyết toán cần phải được đơn giản hóa. Theo quy định của Luật, chi cho KH-CN hàng năm bằng 2% tổng chi ngân sách, nhưng trong nhiều năm vừa qua, các địa phương mới chỉ quyết toán được khoảng 82-83% dự toán chi. Do đó, mỗi năm thừa hàng trăm tỷ đồng trong khi kinh phí để triển khai các đề tài, các nhiệm vụ khoa học lại thiếu.
Hơn nữa, phần chi cho KH-CN của nước ta so với nhiều nước trên thế giới lại ở mức thấp. Có những quốc gia chi tới 2-3% GDP cho KHCN. Ở các nước, ngân sách nhà nước chỉ bảo đảm 20-30% cho hoạt động KHCN, còn lại 70-80% kinh phí cho hoạt động KH-CN được huy động từ các nguồn lực xã hội. Ở nước ta, việc huy động các nguồn lực xã hội ngoài ngân sách cho KHCN còn thấp, chỉ ở mức 20-30%.
Nguyễn Thanh Thảo, 28 tuổi, Hà Nam: Thưa ông Trần Xuân Hồng, nội dung chuyển đổi hình thức hoạt động của đơn vị khoa học công nghệ công lập được quy định mới của Luật Khoa học và Công nghệ sửa đổi có phải là bước đột phá “cởi trói” cho các đơn vị tự chủ đổi mới hoạt động?
Viện trưởng Trần Xuân Hồng: Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi) đã được QH thông qua tại Kỳ họp thứ Năm, và sẽ có hiệu lực vào ngày 1/1/2014. Để Luật đi vào cuộc sống, điều đầu tiên cần phải hoàn thiện và ban hành các văn bản dưới luật gồm Nghị định, các thông tư hướng dẫn cụ thể hóa những quy định và những điều trong Luật giao Chính phủ quy định. Đồng thời, tổ chức thông tin, tuyên truyền sâu rộng trong các cấp các ngành và toàn thể nhân dân để Luật có thể đi vào cuộc sống. Ngoài ra, cần phải chuẩn bị tốt các nguồn lực bảo đảm cho quá trình triển khai các quy định của Luật như nguồn kinh phí, đội ngũ, cơ sở vật chất... Hệ thống cơ quan giám sát thực hiện, các chế tài bảo đảm cho Luật được thực hiện và kịp thời xử lý các vướng mắc. Trong quá trình triển khai thực hiện, ngoài nhận thức của hệ thống chính trị về vai trò của KH-CN trong phát triển KT-XH của đất nước, thì cần phải nói đến kinh phí để có thể triển khai Luật. Trong đó, nguồn kinh phí đầu tư cho KH-CN phải được bảo đảm; thủ tục thanh quyết toán cần phải được đơn giản hóa. Theo quy định của Luật, chi cho KH-CN hàng năm bằng 2% tổng chi ngân sách, nhưng trong nhiều năm vừa qua, các địa phương mới chỉ quyết toán được khoảng 82-83% dự toán chi. Do đó, mỗi năm thừa hàng trăm tỷ đồng trong khi kinh phí để triển khai các đề tài, các nhiệm vụ khoa học lại thiếu. Hơn nữa, phần chi cho KH-CN của nước ta so với nhiều nước trên thế giới lại ở mức thấp. Có những quốc gia chi tới 2-3% GDP cho KHCN. Ở các nước, ngân sách nhà nước chỉ bảo đảm 20-30% cho hoạt động KHCN, còn lại 70-80% kinh phí cho hoạt động KH-CN được huy động từ các nguồn lực xã hội. Ở nước ta, việc huy động các nguồn lực xã hội ngoài ngân sách cho KHCN còn thấp, chỉ ở mức 20-30%.: : Các nội dung mới của Luật Khoa học- Công nghệ (sửa đổi) quy định hình thức hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập được thể hiện rất rõ tại Điều 9 về hình thức phân loại tổ chức KHCN; Điều 11 điều kiện thành lập, đăng ký hoạt động của tổ chức KHCN, Điều 13 quyền chủ động của tổ chức KHCN, Điều 14 nghĩa vụ của tổ chức KHCN.
Có thể cô đọng lại mấy điểm mà theo tôi là có tính đột phá gồm: Thứ nhất là tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động KHCN trong lĩnh vực đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký của tổ chức. Thứ hai là về đổi mới cơ chế tài chính. Thứ ba là việc sắp xếp, bố trí hệ thống tổ chức KHCN.
Trong đó cơ chế tài chính cho phát triển KHCN được đổi mới về căn bản thông qua Quỹ Phát triển KH và CN quốc gia và các Quỹ Phát triển KH và CN của các bộ, ngành, cũng như ở các tỉnh. Và cả Quỹ phát triển KHCN của tổ chức cá nhân, doanh nghiệp cũng không ngoài cuộc trong việc trích quỹ phát triển khoa học và công nghệ thậm chí doanh nghiệp nhà nước là bắt buộc.
Mô hình Quỹ Phát triển KH và CN, thực chất là mô hình quản lý và sử dụng ngân sách tiên tiến, được nhiều nước áp dụng. Mô hình Quỹ cho phép quản lý và sử dụng kinh phí theo phương thức khoán đến sản phẩm cuối cùng, không dùng quản lý hành chính, thanh quyết toán theo năm kế hoạch, vừa phức tạp, vừa nhiều văn bản giấy tờ, chiếm quá nhiều thời gian công sức của nhà khoa học và cả nhà quản lý.
Có điều đáng tiếc là các đơn vị tự chủ tự trang trải kinh phí theo Nghị định 115 lại không được trích Quỹ phát triển KH và CN. Như vậy các đơn vị tự chủ tự trang trải sẽ không có được một quỹ đủ mạnh của mình để chủ động đổi mới công nghệ, đổi mới thiết bị phục vụ tốt cho hoạt động của đơn vị.Chính vì những vấn đề nêu trên có thể nói đây là việc “cởi trói” cho các đơn vị tự chủ đổi mới hoạt động, nhưng nói như vậy vẫn chưa đủ tầm về những điểm mới trong Luật, mà nó sẽ góp phần tạo hành lang pháp lý trong quản lý KHCN theo thông lệ quốc tế, tạo môi trường thông thoáng, minh bạch, công bằng, lành mạnh để các nhà khoa học sáng tạo và nghiên cứu, nhanh chóng đưa nghiên cứu khoa học vào thực chất và phát triển.
Huỳnh An Dương, Thanh Hà, Hải Dương: Luật Khoa học và Công nghệ đã quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH-CN? Nhưng từ quy định của Luật vào cuộc sống thực tiễn còn nhiều vướng mắc? Làm thế nào để khắc phục thưa ông?
Tại Luật Khoa học và Công nghệ được QH ban hành năm 2013 tiếp tục khẳng định cơ chế tự chủ đối với các tổ chức KH và CN công lập. Đồng thời, Luật Khoa học và Công nghệ cũng đã ban hành nhiều chế tài tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện cơ chế tự chủ đối với tổ chức KH và CN công lập. Tuy nhiên, để cơ chế tự chủ đi vào cuộc sống, cần phải thực hiện đồng bộ những giải pháp sau:
- Cần tiếp tục sửa đổi bổ sung hệ thống văn bản pháp luật có liên quan đến cơ chế tự chủ của tổ chức KH và CN công lập trong lĩnh vực tài chính, thuế, đất đai, công chức viên chức... để tạo sự thống nhất và đồng bộ trong hệ thống các quy định của Nhà nước trong việc thực hiện cơ chế tự chủ.
- Các Bộ, ngành, địa phương cần quán triệt chỉ đạo, đôn đốc các tổ chức KH và CN công lập nghiêm túc thực hiện các quy định liên quan đến cơ chế tự chủ.
- Nhà nước cần tăng cường đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực. Đồng thời xây dựng và ban hành quy định về việc sử dụng, trọng dụng của đội ngũ cán bộ trong các tổ chức KH và CN.
- Nhà nước cần có những biện pháp đầu tư phát triển, nâng cao tiềm lực cho các tổ chức KH và CN về tài chính, nhân lực, cơ sở vật chất để các tổ chức KH và CN đủ mạnh để thực hiện cơ chế tự chủ.
- Các tổ chức KH và CN cần quán triệt tinh thần đổi mới của cơ chế tự chủ, chủ động sáng tạo trong mọi hoạt động nhằm thực hiện thành công cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm với hiệu quả cao nhất.
Viện trưởng Trần Xuân Hồng: Việc triển khai Luật KH và CN sửa đổi vào cuộc sống là vô cùng quan trọng. Trước hết phải khẳng định Luật KH và CN sửa đổi có hiệu lực 1/1/2014 với khá nhiều thay đổi trong đó có một số thay đổi mang tính đột phá so với luật hiện hành và được kỳ vọng tạo bước phát triển mới cho KHCN của Việt Nam đó là: phương thức đầu tư cho KHCN; quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước cho nghiên cứu KHCN; loại hình tổ chức KHCN; cơ chế đặt hàng; chính sách sử dụng và đãi ngộ cho cán bộ KH - CN.
Luật KH và CN sửa đổi lần này không chỉ là sửa đổi, bổ sung mà là một phiên bản mới với nhiều điểm đột phá (có thể nói là thay thế hẳn Luật cũ). Luật đã thể hiện rõ quan điểm đổi mới cơ bản toàn diện về chính sách phát triển KH - CN. Đây là khung pháp lý quan trọng, điều chỉnh mọi hành vi liên quan đến hoạt động KHCN, từ góc độ quản lý nhà nước đến trách nhiệm nghĩa vụ và quyền lợi của từng tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực KHCN.
Những người vừa hoạt động thực tế (nghiên cứu khoa học và làm quản lý) thường làm việc với hệ thống văn bản dưới Luật. Thực tế cho thấy các văn bản dưới Luật hiện hành phần lớn đã không còn phù hợp với Luật KH và CN (sửa đổi). Do đó để Luật KH và CN (sửa đổi) nhanh chóng đi vào đời sống xã hội điều quan trọng là phải xây dựng được hệ thống văn bản dưới Luật hoàn chỉnh và đồng bộ. Điều này cần phải có sự đồng thuận của Chính phủ và các bộ, ngành.
Trong quá trình thực hiện chuyển đổi theo Nghị định 115 chúng tôi có nhiều điểm thuận lợi và gặp khá nhiều khó khăn. Cụ thể, bản thân mô hình hoạt động của chúng tôi là nghiên cứu và phát triển ứng dụng, nên Viện có quan hệ với thị trường, với công nghiệp khá tốt. Do đó các nội dung nghiên cứu được xây dựng phần lớn đều dựa trên các nhu cầu bức thiết của thực tiễn, nên các kết quả nghiên cứu đều được đưa ra áp dụng thực tế. Chúng tôi là viện đa ngành, liên lĩnh vực nên không bị cứng nhắc trong việc nhận các ý tưởng đặt hàng. Viện đã có gần 30 năm hoạt động. Đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm hoạt động thực tế, dễ thích ứng với các biến động của thị trường.
Về khó khăn thì có cả những khó khăn chủ quan và khó khăn khách quan. Về khó chủ quan, loại hình nghiên cứu của Viện là loại hình ứng dụng mới, trong khi đó điều kiện đầu tư còn hạn chế, nên cơ sở vật chất đáp ứng cho việc đổi mới còn khó khăn. Viện có 9 đơn vị trực thuộc, nhưng không phải tất cả đều đủ điều kiện để chuyển sang tự chủ tự chịu trách nhiệm. Điều này đòi hỏi phải có quy hoạch, sắp xếp, xây dựng các định hướng mới, các hoạt động mới để đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi.
Về khách quan, trước hết là các chính sách quản lý về tài chính, tài sản của nhà nước không đồng bộ để thực hiện các nội dung quản lý theo cơ chế mới. Ví dụ, để hạch toán tiền lương vào các nhiệm vụ nghiên cứu thiếu các định mức về nhân công (vì nhân công KH - CN còn phụ thuộc vào trình độ, năng lực và chính độ quan trọng của nhiệm vụ đang thực hiện), trong xây dựng dự toán thiếu các định mức về chi phí vật tư, nhân công... Mặt khác, việc chưa có chủ trương rõ ràng về giao tài sản như đất đai, nhà cửa… cũng gây khó khăn cho các đơn vị tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Bản thân quá trình triển khai Nghị định 115 đã bộc lộ những khó khăn, chính vì vậy Chính phủ đã có Nghị định 96 bổ sung và sửa đổi Nghị định 115. Mặc dù vậy, Luật KHCN sửa đổi lần này cũng là một bước thể chế cao nhất tinh thần đổi mới của Chính phủ. Là đối tượng trực tiếp thực hiện Nghị định 115, chúng tôi nhận thức rõ những vướng mắc trong quá trình triển khai. Đó là sự thiếu đồng bộ trong hệ thống các văn bản, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính.
Để đẩy nhanh tiến độ quá trình đổi mới theo tinh thần Luật KH - CN sửa đổi, một mặt tại cơ sở, chúng tôi vẫn tiếp tục quyết tâm chuyển đổi theo yêu cầu của Chính phủ. Mặt khác, nghiên cứu xây dựng, áp dụng và kiến nghị các cơ chế thích ứng với những khó khăn do hệ thống chính sách chưa đồng bộ, đặc biệt là các chính sách liên quan đến tài chính và tài sản công. Mục tiêu chung là thực hiện thành công mô hình tự chủ tự chịu trách nhiệm, đưa đơn vị phát triển một cách bền vững.
Hoàng Tùng, 45 tuổi, Vĩnh Phúc: Có một số văn bản hướng dẫn như Nghị định 115 có trước Luật KH và CN (sửa đổi). Vậy khi Luật có hiệu lực thi hành, xin hỏi ông Đỗ Việt Trung có sửa đổi các văn bản đã có không? Ngoài ra, có ban hành văn bản nào khác không, thưa Ông?
Phó Vụ trưởng Đỗ Việt Trung: Tính đến nay, về cơ bản các văn bản quy định về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức KH và CN công lập được ban hành trước khi Luật KH và CN năm 2013 có hiệu lực. Vì vậy, những quy định trước đây trái với quy định trong Luật KH và CN năm 2013 sẽ được xem xét sửa đổi cho phù hợp. Ngoài ra, Bộ KH và CN đang phối hợp với các bộ, ngành xây dựng dự thảo các nghị định để hướng dẫn thực hiện Luật KH và CN (sửa đổi).
Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ
Nguyễn Ngọc Tú, 31 tuổi, Hà Nội:Theo ông hiệu quả của Nghị định 115/2005/NĐ-CP mang lại cho các tổ chức KH- CN những gì?
Phó vụ trưởng Đỗ Việt Trung: Về bản chất Nghị định 115/2005/NĐ-CP là triển khai cụ thể một chủ trương lớn của Nhà nước là đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công lập mà ở đây là các tổ chức KHCN công lập tại các bộ, ngành Trung ương và các địa phương. Cụ thể, Nghị định 115 đã trao các quyền tự chủ, phân cấp mạnh cho các tổ chức KHCN gồm được tự chủ về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, tự chủ về tổ chức bộ máy, tự chủ về nhân lực, tự chủ về tài chính, về hợp tác quốc tế; Được giao tài sản, kể cả giá trị quyền sử dụng đất; Được chủ động nâng lương cho cán bộ viên chức đúng hạn, trước thời hạn và vượt bậc trong cùng ngạch; Được hỗ trợ đầu tư phát triển khi tăng trưởng sớm, khi chuyển đổi sớm và có dự án khả thi; Không giới hạn thu nhập, quỹ lương được tính vào chi phí thu nhập trước thuế.
Riêng đối với tổ chức KHCN chuyển đổi thành tổ chức tự trang trải kinh phí hoạt động thường xuyên được đăng ký cấp Giấy chứng nhận đăng ký sản xuất kinh doanh nhu doanh nghiệp. Được góp vốn, tài sản vào hoạt động sản xuất kinh doanh; được ưu đãi về thuế, đất đai, vay tín dụng…
Cơ chế tự chủ và các chính sách ưu đãi trên khi được thực hiện đầy đủ sẽ tạo lập được môi trường và điều kiện thuận lợi để các tổ chức KH và CN phát triển, tăng cường trách nhiệm và nâng cao tính tích cực, chủ động, năng động, sáng tạo của tổ chức KH và CN. Giúp các tổ chức KH và CN thuận lợi trong việc gắn nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ với sản xuất, kinh doanh và đào tạo nhân lực, đẩy nhanh quá trình xã hội hóa các hoạt động khoa học và công nghệ. Tạo điều kiện tập trung đầu tư có trọng điểm cho các tổ chức khoa học và công nghệ. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ, góp phần tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước.
Nguyễn Thanh Sơn, 36 tuổi, Hà Nội: Về việc chuyển sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm là cơ hội cho các tổ chức KHCN công lập tạo sự chuyển biến để nâng cao hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng vẫn còn quá nhiều vướng mắc chưa thể giải quyết?
Ủy viên Thường trực Phùng Đức Tiến: Nghị định 115/2005/NĐ - CP từ ngày 5/9/2005 được xem như “khoán 10” trong nông nghiệp, đến nay đã hơn 8 năm nhưng vẫn chưa đi sâu vào cuộc sống chứng tỏ còn có nhiều khó khăn vướng mắc.
Về số lượng các đơn vị khoa học công nghệ công lập được phê duyệt phương án chuyển đổi mới chỉ đạt gần 50% và phần lớn vẫn chỉ giữ ở phê duyệt đề án còn thực chất đa số chưa thực sự hoạt động theo cơ chế 115.
Tôi xin dẫn chứng những khó khăn, vướng mắc đó là: Tiến độ thực hiện Nghị định 115 chậm, nguyên nhân do các bộ, ngành, địa phương chưa quyết liệt trong việc chỉ đạo, điều hành thực hiện Nghị định các tổ chức KHCN công ty chuyển đổi cơ chế vì sợ cắt suất lương, chi thường xuyên hoạt động bộ máy; Cơ chế 115 chưa đồng bộ với các văn bản pháp luật khác như công chức, viên chức, đất đai; Quyền tự chủ tổ chức của các đơn vị và người đứng đầu cơ quan chưa triệt để, còn nhiều vướng mắc; Quyền tự chủ về tài chính còn nhiều hạn chế; Nguồn vốn vay sử dụng đất đai, tài sản còn chưa được chủ động; Tự chủ về nhiệm vụ còn rất lúng túng.
Lâm Văn Long, Ba Vì, Hà Nội: Tôi ở doanh nghiệp xin hỏi ông Trung, khi tổ chức KH-CN đã được cơ quan có thẩm quyền cho phép chuyển đổi theo quy định của Nghị định 43, nay muốn thực hiện theo Nghị định 115 thì phải làm những thủ tục gì?
Phó vụ trưởng Đỗ Việt Trung: Khi đã xác định đúng là tổ chức KH và CN công lập thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định 115 thì bắt buộc phải thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm quy định tại Nghị định 115/2005/NĐ- CP và Nghị định 96/2010/NĐ- CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 115 (sau đây gọi tắt là Nghị định 115 và Nghị định 96). Để thực hiện Nghị định 115, tổ chức KH và CN công lập triển khai theo các bước sau:
- Phổ biến quán triệt các tinh thần, nội dung của Nghị định 115, Nghị định 96 và văn bản hướng dẫn liên quan đến Nghị định 115, Nghị định 96 đến toàn thể cán bộ công nhân viên chức, các tổ chức toàn thể của cơ quan.
- Thống nhất trong lãnh đạo, cấp ủy và công đoàn về chủ trương và lộ trình triển khai.
- Xác định hình thức tổ chức và hoạt động theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch 12/2006, Thông tư liên tịch 36/2011 và Quyết định 08/2007 của Bộ KH và CN để xây dựng Đề án kiện toàn tổ chức hoặc Đề án đổi mới tổ chức.
- Xây dựng Đề án theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch 12/2006 và Thông tư liên tịch 36/2011.
- Dự thảo Điều lệ tổ chức và hoạt động của tổ chức, Quy chế chi tiêu nội bộ.
- Báo cáo Đề án tại Hội nghị cán bộ để lấy ý kiến thông qua của ít nhất 2/3 tổng số cán bộ công nhân viên chức.
- Trình Đề án lên cơ quan chủ quản để xem xét, thẩm định và trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt Đề án.
- Triển khai thực hiện Đề án khi được phê duyệt.
Huỳnh Thị Điền, Lập Thạch, Vĩnh Phúc: Thưa ông đơn vị KHCN sống bằng nguồn kinh phí ngân sách và nguồn kinh phí tự chủ có gì khác nhau? Tự quyết định kinh phí có phải là động lực đổi mới hoạt động của đơn vị hoạt động KHCN?
Viện trưởng Trần Xuân Hồng: Hai nguồn kinh phí này được sử dụng trong các đơn vị KH – CN là khác nhau. Dùng kinh phí ngân sách thì mọi hoạt động chi tiêu phải tuân thủ quy định của Nhà nước về chi tiêu ngân sách (ví dụ như định mức, thủ tục thanh quyết toán, tuân thủ dự toán được duyệt…). Còn dùng kinh phí tự chủ thì đơn vị được chủ động trong việc chi tiêu trong mọi hoạt động của mình, tất nhiên việc chi tiêu vẫn phải đúng quy định của pháp luật.
Khi nói về ngân sách chúng ta nói về nguồn, còn khi nói về kinh phí tự chủ chúng ta nói về quyền. Hai hình thái quản lý cùng tồn tại trong một mô hình tổ chức thường gây ra sự thiếu nhất quán và khó khăn khi triển khai thực hiện, đặc biệt khi chưa được quyền tự chủ. Còn khi đã tự chủ rồi, kinh phí để thực hiện các nội dung nghiên cứu, để thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên vẫn được cấp từ nguồn ngân sách. Cái duy nhất khác ở đây chỉ là cách cấp phát khác nhau mà thôi. Nếu có chính sách quản lý đồng bộ thì chắc chắn ai cũng muốn tự chủ.
Khái niệm tự chủ tự chịu trách nhiệm cung cấp cho các tổ chức KHCN nhiều lợi thế, nếu đủ điều khiện khai thác có hiệu quả các lợi thế đó thì chắc chắn các tổ chức KHCN sẽ phát triển.
Theo tôi, động lực đổi mới hoạt động của các đơn vị KH – CN chính là việc đưa hoạt động KH – CN ngày càng gắn kết với nhu cầu thực tế, thông qua việc triển khai thực tế để tạo ra hiệu quả kinh tế. Đây là trách nhiệm cũng như là mong muốn của các đơn vị hoạt động KH - CN. Chủ trương tự quyết định về kinh phí là một trong những biện pháp để tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong cơ chế quản lý hiện nay. Chủ trương này đã tạo ra một cơ hội mới cho các tổ chức hoạt động KH- CN. Vấn đề mấu chốt là làm gì và làm thế nào để có kinh phí mà tự chủ. Đây chính là bài toán mà các Lãnh đạo, các nhà nghiên cứu ở đơn vị ra tự chủ phải tìm được lời giải và đó mới là động lực chính cho việc đổi mới hoạt động của tổ chức KH - CN.
Phó vụ trưởng Đỗ Việt Trung: Theo quy định tại Nghị định 96/2010/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Nghị định 115/2005//NĐ-CP, tổ chức KH và CN công lập sau khi được chuyển sang hoạt động theo hình thức tổ chức tự trang trải kinh phí thì vẫn được coi là đơn vị sự nghiệp của Nhà nước. Vì vậy, tổ chức KH và CN công lập vẫn được Nhà nước xem xét đầu tư phát triển. Quy định chi tiết về việc đầu tư phát triển đối với tổ chức KH và CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ được quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2006/TTLT/BKHCN- BTC- BNV ngày 5/6/2006.
Đinh Dương Khánh, 46 tuổi, Khánh Hòa: Theo ông, thực trạng những hạn chế của hoạt động KH và CN hiện nay có phải là chưa quy tụ được sức mạnh của đội ngũ các nhà khoa học, chúng ta chưa chú trọng đầu tư cho các nhà khoa học hay do đội ngũ khoa học chưa phát huy hết năng lực của mình?
Ủy viên Thường trực Phùng Đức Tiến: Trong thời gian qua, nước ta đã có đội ngũ cán bộ khoa học đông đảo với hơn 60 nghìn người. Trong đó, có gần 6 nghìn tiến sĩ, hơn 11 nghìn thạc sĩ và gần 30 nghìn người có trình độ đại học. Tuy nhiên, do còn nhiều hạn chế về cơ chế chính sách, về tài chính, về tổ chức… nên chưa huy động được tối đa nguồn nhân lực, trí tuệ, tài năng của các nhà khoa học vào nghiên cứu và phát triển KHCN. Chẳng hạn, phần lớn các nhà khoa học ở các trường đại học chưa được huy động vào nghiên cứu; các nhà khoa học ở các viện, do hạn chế về kinh phí nên chưa sử dụng hết thời gian vào nghiên cứu khoa học. Như vậy, trong thời gian dài, chúng ta vẫn để lãng phí nguồn nhân lực; chưa có chế độ ưu đãi thỏa đáng đối với các nhà khoa học, đặc biệt các chuyên gia đầu ngành, nhà khoa học trẻ tài năng. Chưa có kinh phí cho các nhóm nghiên cứu xuất sắc. Do vậy, đã làm triệt tiêu động lực sáng tạo, làm giảm sự đam mê, tâm huyết theo đuổi sự nghiệp khoa học lâu dài của nhiều cán bộ khoa học. Môi trường làm việc còn nhiều thiếu thốn, đặc biệt là các trang thiết bị phục vụ công tác nghiên cứu. Từ đó, chúng ta chưa huy động tối đa sức mạnh, sức sáng tạo của đội ngũ những người làm khoa học nước nhà vào công cuộc phát triển khoa học công nghệ cũng như phát triển đất nước nói chung.
Thanh Tú, 27 tuổi, Tây Sơn, Hà Nội: Thưa ông Trung, ông có thể cho biết những điều chỉnh cơ bản của Nghị định 96 so với Nghị định 115?
Phó Vụ trưởng Đỗ Việt Trung: Sau khi Nghị định 115/2005/NĐ-CP được Chính phủ ban hành và chính thức triển khai thực hiện từ năm 2006 trên phạm vi cả nước, Bộ KH và CN phối hợp với các bộ, ngành, các địa phương tổ chức hướng dẫn các tổ chức KH và CN công lập thuộc đối tượng điều chỉnh chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, qua thực tiễn theo dõi, đánh giá, tiếp thu phản ánh của các bộ, ngành, tổ chức KH và CN công lập cho thấy, chủ trương đổi mới cơ chế của Nghị định 115 là rất đúng đắn và cần thiết.
Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện cho thấy bộc lộ một số vướng mắc, bất cập trong đó cần có sự điều chỉnh, bổ sung một số quy định mới để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức KH và CN công lập thực hiện cơ chế mới. Bộ KH và CN phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và một số bộ, ngành liên quan ban hành Nghị định 96/2010/NĐ- CP điều chỉnh, bổ sung một số điều của Nghị định 115. Có thể tóm tắt những nội dung điều chỉnh bổ sung cơ bản của Nghị định 96 là:
1. Mở rộng thêm đối tượng tổ chức KH và CN công lập được xếp loại vào tổ chức tiếp tục được ngân sách Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động thường xuyên theo phương thức khoán (Tổ chức thuộc Khoản 3, Điều 4, Nghị định 115): Tổ chức KH và CN công lập hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật chuyên ngành; Tổ chức KH và CN công lập phục vụ quản lý nhà nước.
2. Bổ sung quy định về hỗ trợ kinh phí hoạt động thường xuyên đối với tổ chức KH và CN công lập mới thành lập sau ngày Nghị định 115 có hiệu lực (tổ chức thuộc Khoản 4 Điều 4 Nghị định 115), trong đó gồm: Tổ chức KH và CN công lập thuộc Trung ương được Nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động thường xuyên 4 năm đầu; Tổ chức KH và CN công lập thuộc địa phương được Nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động thường xuyên 6 năm đầu.
3. Thay đổi phương thức cấp kinh phí hoạt động thường xuyên đối với các tổ chức KH và CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm: Nhà nước cấp kinh phí hoạt động thường xuyên (bao gồm lương và chi bộ máy) cho các tổ chức KH và CN công lập trong nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng và nhiệm vụ KH và CN của Nhà nước (thay thế phương thức cấp kinh phí hoạt động thường xuyên theo số lượng biên chế cho các tổ chức KH và CN công lập như trước đây).
4. Quy định lại thời hạn chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự trang trải kinh phí của tổ chức KH và CN công lập từ 01/01/2010 đến 01/01/2014.
5. Sửa đổi chính sách ưu đãi thuế thu nhập đối với tổ chức KH và CN công lập: các tổ chức KH và CN công lập được hưởng ưu đãi về tài chính đối với hoạt động KH và CN và các ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp KH và CN.
Các nội dung chi tiết được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư 36/2011/TTLT/BKHCN- BTC-BNV ngày 26/12/2011.
Trần Thị Bạch, 26 tuổi, Hoa Lư, Ninh Bình: Có một thực tế các tổ chức KH-CN đưa ra lý do cho việc chậm trễ xây dựng phương án chuyển đổi là việc không rõ đơn vị mình thuộc đơn vị nghiên cứu cơ bản hay ứng dụng? Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
Viện trưởng Trần Xuân Hồng: Đây là thực tế, ví dụ tổ chức của chúng tôi là tổ chức nghiên cứu ứng dụng điều đó được quy định ngay trong tên gọi. Nhưng trong hoạt động thực tế có những vấn đề nghiên cứu mang tính khảo nghiệm, dẫn dắt, không phải nội dung nghiên cứu nào cũng tạo ra ngay được sản phẩm để ứng dụng. Nhưng nếu cho rằng các nội dung có tính chất khảo nghiệm không thuộc loại hình nghiên cứu cơ bản và không được bảo đảm kinh phí thường xuyên thì khẳng định sẽ không bao giờ có sản phẩm. Trong hoạt động nghiên cứu nào cũng cần sáng tạo, đi trước và mạo hiểm. Nếu phân biệt quá rạch ròi cơ bản và ứng dụng, đôi lúc tạo cảm giác cơ bản là được nhà nước nuôi, ứng dụng là ra thị trường thì phân vân như phản ánh là khó tránh khỏi.
Tôi cho rằng, chủ trương bảo đảm kinh phí thường xuyên thông qua các nhiệm vụ thường xuyên của các tổ chức nghiên cứu không chỉ là nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chính sách, kể cả nghiên cứu ứng dụng. Là một chủ trương đúng, vì theo tinh thần đổi mới thì các đơn vị mà thực hiện Nghị định 115 vẫn là các đơn vị sự nghiệp công lập, có nghĩa là họ vẫn thực hiện nhiệm vụ của nhà nước giao. Nếu chủ trương này được áp dụng vào thực tế thì việc băn khoăn như câu hỏi chắc chắn là sẽ được giải quyết.
Lan Hương (35 tuổi), Đà Nẵng: Nhiều người cho rằng, một số cán bộ lãnh đạo tổ chức KH-CN không mặn mà với việc thực hiện Nghị định 115 vì phẩm chất và năng lực không còn đáp ứng được với nhu cầu của việc chuyển đổi cơ chế hoạt động? Ông có nghĩ như vậy không?
Viện trưởng Trần Xuân Hồng: Chủ trương chuyển đổi các đơn vị nghiên cứu ứng dụng sang thực hiện mô hình tự chủ, tự chịu trách nhiệm được bắt đầu từ năm 2006. Từ thời điểm bắt đầu cho đến hiện nay đã có nhiều đơn vị chuyển đổi, cũng có nhiều đơn vị thành công nhưng cũng có nhiều đơn vị chưa thành công. Thực tế cho thấy, những đơn vị thành công chủ yếu tập trung vào nhóm các đơn vị theo chức năng và nhiệm vụ Nhà nước giao thì được quyền cấp phép, thẩm định, giám sát… Còn các đơn vị mà nguồn thu chủ yếu dựa và các sản phẩm hoạt động KH – CN của mình thì thường khó khăn.
Chính điều này đã ảnh hướng đến tâm lý một số cán bộ lãnh đạo KH – CN. Vì việc chuyển đổi tổ chức sang một mô hình mới mà yếu tố thành công là không rõ ràng, với trách nhiệm là các nhà lãnh đạo bắt buộc phải cân nhắc vì ảnh hưởng này có thể ảnh hưởng đến cả sự nghiệp của đông đảo tập thể, cán bộ nhân viên. Trên phương diện này, trăn trở cân nhắc của họ là chính đáng.
Việc nhận định vì phẩm chất và năng lực của họ không đáp ứng nhu cầu mà họ không mặn mà, theo tôi là phiến diện. Là người quản lý một tổ chức không được phép đặt cảm tính cá nhân lên trên, người lãnh đạo có trách nhiệm luôn phải lo lắng cho tập thể, trước mọi biến động của tổ chức. Trước thời điểm đổi mới tổ chức hoạt động của mỗi một tổ chức là một thực tiễn cụ thể, người lãnh đạo biết tôn trọng thực tiễn thì mới tiến hành đổi mới thành công. Không thể áp đặt cơ chế một cách máy móc, hay sao chụp cách làm nơi này nơi khác. Trong hoạt động KHCN, con người là nhân tố quyết định. Do đó, đổi mới mà để đánh mất đội ngũ, hoặc làm cho đội ngũ không phát triển được là rất nguy hiểm. Vì vậy, đổi mới mô hình hoạt động của một tổ chức ngoài chủ kiến của người đứng đầu tổ chức còn cần xem xét kỹ khả năng của chính tổ chức đó nữa.
Là lãnh đạo một đơn vị KH - CN, chắc chắn phẩm chất và năng lực của họ đã được đánh giá và khẳng định trước khi bổ nhiệm và được minh chứng, bộc lộ ngay trong quá trình điều hành hoạt động của tổ chức chứ không phải đợi đến khi thực hiện Nghị định 115. Khi chuyển đổi hoạt động theo Nghị định 115 tổ chức KH - CN có nhiều thuận lợi: được tự chủ về nhiệm vụ; được giao tài sản, kể cả giá trị quyền sử dụng đất; được chủ động trong mọi hoạt động của đơn vị như: bổ nhiệm, miễm nhiệm, nâng lương, tuyển dụng, sát nhập, giải thể… Vẫn là đơn vị sự nghiệp công lập, vẫn được hỗ trợ đầu tư phát triển, không giới hạn thu nhập, quỹ lương tính vào chi phí hợp lý trước thuế; được quyền sản xuất kinh doanh, được hưởng các quyền lợi khác của doanh nghiệp… các ưu đãi khác mà Luật KH - CN sửa đổi mới ban hành. Vì vậy việc chuyển đổi sang cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm là cơ hội tốt cho sự phát triển của đơn vị. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận thực tế khách quan là cơ chế đang chưa đồng bộ, do đó có sự phân vân là thực tế.
Trần Mỹ Trang (34 tuổi), Lâm Đồng: Nghị định 96 có quy định kinh phí hoạt động thường xuyên hàng năm của các tổ chức KH-CN được cấp theo phương thức khoán. Theo ông điều này sẽ ảnh hưởng tới quá trình hoạt động của tổ chức KH-CN như thế nào?
Viện trưởng Trần Xuân Hồng: Chắc chắn là ảnh hưởng, nhưng là ảnh hưởng tích cực. Nhưng tại thời điểm này các văn bản quy định chưa đầy đủ. Chúng tôi ủng hộ chủ trương này vì khi thực hiện việc khoán kinh phí thì đơn vị có thể chủ động tổ chức việc sử dụng kinh phí sát với yêu cầu tổ chức hoạt động.
Sơn Nguyên (45 tuổi), Bắc Kạn: Thưa ông Trung, Ông có thể cho biết các đơn vị sự nghiệp công lập nào là đối tượng thực hiện Nghị định 115?
Phó vụ trưởng Đỗ Việt Trung: Theo quy định tại Nghị định 115/2005/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn, tổ chức KH và CN công lập thuộc đối tượng thực hiện Nghị định phải đáp ứng các điều kiện: là tổ chức KH và CN công lập; có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng; do một trong các cơ quan: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ra quyết định thành lập; được tổ chức dưới các hình thức: viện, trung tâm, phòng thí nghiệm, trạm nghiên cứu, trạm quan trắc, trạm thử nghiệm và cơ sở nghiên cứu và phát triển khác; thuộc một trong các cơ quan: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các trường đại học, học viện, cao đẳng và các tổng công ty Nhà nước.
Vì vậy, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần xác định rõ những tổ chức thuộc đối tượng của Nghị định 115/2005/ NĐ-CP để yêu cầu thực hiện.
Hoàng Văn Trường (35 tuổi), Củ Chi, TP Hồ Chí Minh: Xin hỏi UVTT Phùng Đức Tiến: từ thực tiễn của doanh nghiệp, tôi cho rằng việc chuyển sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm là cơ hội cho các tổ chức KH-CN tạo sự chuyển biến, nâng cao hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, theo tôi vẫn còn quá nhiều vướng mắc chưa thể giải quyết. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
Ủy viên Thường trực Phùng Đức Tiến: Đúng vậy, cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm là cơ hội cho các tổ chức KHCN nâng cao hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, đến nay, Nghị định 115 vẫn chưa đi vào cuộc sống do còn có nhiều vướng mắc, khó khăn, thưa Ông?
Cụ thể, nhận thức về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm chưa được thông suốt. Công tác chỉ đạo, điều hành của các bộ, ngành và UBND các cấp chưa thật sự quyết liệt. Các đơn vị KHCN công lập cũng đang còn e ngại vì khi thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm thì sẽ bị cắt suất lương và chi phí thường xuyên cho hoạt động của bộ máy. Tư tưởng bao cấp trong nghiên cứu khoa học còn nặng nề. Về tự chủ tổ chức cũng còn nhiều vướng mắc như phê duyệt, đoàn ra đoàn vào vẫn phải do Bộ chủ quản phê duyệt. Quyết định thành lập các đơn vị mới trực thuộc chưa được hướng dẫn cụ thể. Quyết định về chế độ lên lương sớm chưa phù hợp với Luật công chức, viên chức.
Về tự chủ tài chính, quyết toán hàng năm tại các đơn vị khoa học, công nghệ công lập vẫn theo chế độ sự nghiệp có thu. Mở tài khoản kinh doanh còn nhiều khó khăn. Hạn mức tài chính của người đứng đầu với đơn vị cấp ba chỉ được phê duyệt dưới 100 triệu đồng, với người đứng đầu đơn vị cấp 2, chỉ ở mức dưới 500 triệu đồng, làm hạn chế tính chủ động trong hoạt động nghiên cứu và sản xuất kinh doanh.
Về tự chủ nhiệm vụ, do kinh phí khoa học còn hạn chế, nên không phải đơn vị nào khi thực hiện tự chủ bị cắt hết kinh phí hoạt động thường xuyên cũng đấu thầu được đề tài, dự án. Do vậy, sẽ rất khó khăn trong hoạt động. Về cơ chế vay vốn hoạt động của các tổ chức KHCN công lập cũng hết sức khó khăn. Về chính sách đất đai, chủ yếu là đất giao không thu tiền, do vậy theo Luật Đất đai, thì không được mang đi thế chấp hoặc góp vốn để sản xuất kinh doanh. Với những khó khăn này, làm cho Nghị định 115 chưa đi vào cuộc sống.
Ngọc Anh (43 tuổi), Hải Dương: Thưa ông Tiến, ông có cho rằng trong thời gian tới việc thực hiện cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm tại các địa phương sẽ góp phần tích cực vào hiệu quả hoạt động KH và CN nói chung?
Ủy viên Thường trực Phùng Đức Tiến: Về triển khai thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm cũng cần phải xem xét, đánh giá theo các ngành và lĩnh vực. Đối với những đơn vị có tiềm lực về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ nghiên cứu thì việc chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm sẽ thuận lợi và phát huy được tính chủ động, sáng tạo, nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị này, góp phần tích cực vào hiệu quả hoạt động KHCN nói chung. Bên cạnh đó, cũng có nhiều đơn vị, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, chất lượng đội ngũ nghiên cứu còn hạn chế, kết quả nghiên cứu chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất thì việc chuyển sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm sẽ rất khó khăn. Do vậy, cần tổng kết thực tiễn hơn 8 năm thực hiện Nghị định 115 làm cơ sở để có những giải pháp cho giai đoạn tiếp theo, đặc biệt đối với các đơn vị khoa học ở các địa phương.
Lê Thị Hương (40 tuổi), TP Sơn La: Thưa ông Tiến, theo nhận định của ông thì việc tự quyết định kinh phí có thực sự là động lực đổi mới hoạt động của các đơn vị hoạt động KH-CN hay không hay còn vấn đề nào khác?
Ủy viên Thường trực Phùng Đức Tiến: Trong cơ chế thị trường, để nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học, tự chủ về tài chính là yếu tố rất quan trọng. Bởi vì khi tự chủ được tài chính, đơn vị và người đứng đầu cơ quan, tổ chức sẽ chủ động trong việc chi tiêu và tiết kiệm được kinh phí. Đồng thời, chủ động nắm bắt cơ hội, nâng cao hiệu quả đầu tư, chủ động đàm phán và phối hợp với các doanh nghiệp ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Khi được tự chủ về tài chính, các đơn vị sẽ có điều kiện để điều chỉnh kịp thời các hoạt động phù hợp với thực tế, cắt giảm các thủ tục hành chính phiền hà. Tự chủ tài chính tạo điều kiện cho tổ chức, đơn vị phân bổ nguồn lực và nâng cao thu nhập cán bộ nghiên cứu và người lao động.
Những khó khăn khi thực hiện cơ chế tự chủ
Trần Mạnh Hùng, Thừa Thiên Huế: Thưa ông Tiến, là người đã từng trải qua thực tế tại cơ sở, và bản thân cơ sở này đã có rất nhiều các ứng dụng KHCN vào sản xuất. Vậy những điều này có được là do đâu? Cái khó trong tổ chức nghiên cứu cũng như khi ứng dụng là gì?
Ủy viên Thường trực Phùng Đức Tiến : Trong nhiều năm qua, Viện Chăn nuôi nói chung và Trung tâm Nghiên cứu gia cầm Thụy Phương nói riêng có nhiều kết quả trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Để có được điều này, trước hết, phải xây dựng, chăm lo, đào tạo nguồn nhân lực để có các chuyên gia đầu ngành, cán bộ khoa học trẻ tài năng, tâm huyết với sự nghiệp. Tăng cường củng cố cơ sở vật chất trang thiết bị, đồng thời, nắm bắt kịp thời thông tin trong khu vực và thế giới, cập nhật các tiến bộ mới. Mặt khác, phải xây dựng một chiến lược KHCN có lộ trình và bước đi, mục tiêu thích hợp cho từng giai đoạn. Với những tiền đề này, đề xuất đề tài đáp ứng được yêu cầu của sản xuất, triển khai tổ chức thực hiện nghiêm túc. Các tiến bộ kỹ thuật được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất, cơ bản do Viện nghiên cứu, sáng chế và ứng dụng.
Trong quá trình triển khai nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất còn gặp nhiều khó khăn. Cụ thể như nguồn kinh phí còn hạn hẹp, cơ sở vật chất nghèo nàn, chất lượng nguồn nhân lực chưa đồng đều. Mặt khác, chưa có cơ chế khuyến khích nhà khoa học có nhiều công trình đóng góp cho sản xuất, không có phụ cấp như những ngành nghề khác. Lương vẫn trả theo thâm niên công tác, chưa theo kết quả, hiệu quả nghiên cứu. Chưa phân định chế độ lương theo học vị, học hàm. Về tổ chức còn cồng kềnh, cơ chế sử dụng nguồn nhân lực còn nhiều vướng mắc, do vậy, chưa tuyển dụng được những cán bộ khoa học trẻ có năng lực. Các thủ tục liên quan đến đăng ký bản quyền sáng chế còn phức tạp.
Nguyễn Quỳnh Bình (41 tuổi), Thái Nguyên: Cái khó hiện nay là khi nghiên cứu các đề tài khoa học có phải là gắn kết quả nghiên cứu với đòi hỏi của đời sống xã hội không? Vấn đề này sẽ được xử lý trong các đơn vị tổ chức khoa học công lập như thế nào, thưa Ông?
Ủy viên Thường trực Phùng Đức Tiến: Trong thời gian vừa qua, nhiều công trình nghiên cứu khoa học được triển khai, sau khi nghiệm thu là “cất ngăn kéo”. Tính ứng dụng thực tế của nhiều công trình nghiên cứu chưa cao. Nguyên nhân của tình trạng này là do việc xác định đề tài chưa sát với yêu cầu thực tiễn. Mặt khác, để triển khai kết quả nghiên cứu vào sản xuất, sau khi nghiệm thu, cần phải có thời gian tiến hành sản xuất thử nghiệm rồi mới nhân rộng ra sản xuất.
Ngoài ra, đầu tư cho nghiên cứu phải phù hợp với đối tượng, nhiều đề tài triển khai nghiên cứu chưa đánh giá hết chu kỳ sản phẩm đã phải kết thúc theo niên hạn tài chính. Chẳng hạn, nghiên cứu về cây trồng, vật nuôi cần hết chu kỳ sinh trưởng mới đánh giá được nhưng do kết thúc giai đoạn, phải nghiệm thu giữa chừng trước khi có kết quả cuối cùng. Do vậy, chưa kết luận được một cách chính xác các thông số kỹ thuật, khó ứng dụng vào sản xuất. Để kết quả nghiên cứu đáp ứng được đòi hỏi thực tiễn, ngoài việc khắc phục những tồn tại vừa nêu, cần phải có cơ chế để các doanh nghiệp phối hợp với các viện nghiên cứu, trường đại học tham gia đề xuất, triển khai đề tài nghiên cứu và phải có địa chỉ ứng dụng cụ thể. Như vậy, ngoài việc gắn nghiên cứu với sản xuất, đồng thời sẽ huy động được nguồn lực của cả viện, trường và doanh nghiệp vào nghiên cứu và chuyển giao các ứng dụng KHCN.
Ngọc Huân (32 tuổi), Tây Ninh: Tôi có câu hỏi như sau muốn gửi tới ông Hồng: Là một Viện với đầy đủ bộ máy tổ chức cũng như kinh phí hoạt động. Vậy tại sao việc nghiên cứu và ứng dụng KHCN thực tế hiện nay vẫn rất kém cỏi, trong khi các "nhà khoa học chân đất" lại có rất nhiều những sáng kiến được áp dụng rất hiệu quả trong thực tế?
Viện trưởng Trần Xuân Hồng: Theo tôi, có một khoảng cách giữa nghiên cứu và áp dụng thực tế, khoảng cách này được gọi là “thung lũng chết”. Để các nhà nghiên cứu KHCN đưa được sản phẩm của mình vào ứng dụng thực tế thì phải nỗ lực để vượt qua đươc khoảng cách này. Các sản phẩm nghiên cứu thường chỉ dừng lại ở mô hình hoặc là nguyên mẫu của sản phẩm và để mô hình hoặc nguyên mẫu của sản phẩm đưa vào sử dụng trong thực tế thì cần phải được đầu tư để hoàn thiện sản phẩm.
Thực tế hiện nay, đầu tư để hoàn thiện sản phẩm này thường do tự tác giả hoặc cơ quan chủ trì thực hiện nghiên cứu của sản phẩm đó tiến hành. Trong khi, khả năng kinh phí để hoàn thiện sản phẩm của các tổ chức KH – CN rất hạn chế. Đây là một trong những yếu tố làm cho số lượng các nghiên cứu đưa vào ứng dụng thực tế rất hạn chế. Tất nhiên, vẫn còn một yếu tố là các nội dung nghiên cứu chưa xuất phát từ yêu cầu thực tế và các kết quả nghiên cứu không đạt yêu cầu.
Các nội hàm nghiên cứu tại các cơ quan nghiên cứu phải dựa trên các lý thuyết, lập luận, kế thừa các nghiên cứu khoa học hiện đại… để giải quyết một cách có căn cứ các nội dung nghiên cứu đặt ra. Thông thường thì tỷ lệ các kết quả nghiên cứu được áp dụng thực tế thấp không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả ở các nước có nền KH – CN phát triển. Việc nỗ lực để nâng cao tỷ lệ áp dụng thực tế các kết quả nghiên cứu là cần thiết và đòi hỏi sự quan tâm của các bộ, ngành và bản thân các nhà nghiên cứu. Do vậy, nếu đem các nội dung nghiên cứu ở các viện nghiên cứu để so sánh với các cải tiến kỹ thuật của các “nhà khoa học chân đất” theo tôi là khập khiễng. Vì các kỹ thuật được ứng dụng của “nhà khoa học chân đất” thường tập trung giải quyết các vấn đề đang vướng mắc trong quá trình lao động sản xuất, sử dụng trang thiết bị nhằm giải quyết những vướng mắc và búc xúc trong quá trình lao động sản xuất của họ. Cho nên, các sáng kiến cũng thường là chính họ áp dụng. Tuy nhiên, đối với các sáng kiến đòi hỏi có kỹ thuật cao như sản xuất máy bay lên thẳng, những vấn đề như về sức bền vật liệu, cân bằng mômen động… thì chắc chắn là các nhà "khoa học chân đất" sẽ không đủ điều kiện và cơ sở khoa học để giải quyết.
Xã hội hóa nghiên cứu KH-CN
Nguyễn Thành Luân, TP Hồ Chí Minh: Việc xã hội hóa nghiên cứu KH-CN là một xu hướng tất yếu của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là nghiên cứu ứng dụng của các doanh nghiệp. Vậy theo ông, cần có những giải pháp và chính sách khuyến khích nào cho doanh nghiệp KH-CN thực hiện?
Ủy viên Thường trực Phùng Đức Tiến: Trong nhiều năm vừa qua, việc xã hội hóa nghiên cứu KHCN còn nhiều hạn chế. Đầu tư cho KHCN vẫn chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà nước. Tỷ lệ đầu tư từ các doanh nghiệp mới chỉ đạt ở mức 20-30%. Do còn có những khó khăn, vướng mắc như quy mô doanh nghiệp ở nước ta chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do vậy, đầu tư cho KHCN tuy với tỷ lệ cao nhưng tổng nguồn lực vẫn còn ở mức thấp. Cơ chế tài chính cho các doanh nghiệp để chi tiền đầu tư cho KHCN còn rất phức tạp. Cơ chế chính sách khuyến khích ưu đãi các doanh nghiệp đầu tư cho KHCN còn ít.
Để tháo gỡ những khó khăn này, đồng thời huy động được nguồn tài chính từ xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp, đầu tư cho đổi mới sáng tạo, ứng dụng KHCN cần phải có cơ chế chính sách ưu đãi về thuế, về đất đai; thủ tục chi phần kinh phí dành cho đầu tư KHCN phải được đơn giản hóa và mang tính chủ động hơn. Cùng với đó, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ cao, công nghệ nguồn, công nghệ chế biến, cơ khí chế tạo...
Minh Phương, 35 tuổi, Hà Nội: Việc xã hội hóa nghiên cứu KH - CN là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là nghiên cứu ứng dụng của các doanh nghiệp. Theo ông, cần có những giải pháp và chính sách khuyến khích nào để các doanh nghiệp KH - CN thực hiện?
Viện trưởng Trần Xuân Hồng: Bản chất của nghiên cứu ứng dụng của các doanh nghiệp thường tập trung vào cải tiến công nghệ và đổi mới sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường để nâng cao năng lực cạnh tranh thì các doanh nghiệp KH – CN phải có nhu cầu tự thân là phải tổ chức lực lượng nghiên cứu trong nội bộ doanh nghiệp.
Để khuyến khích các doanh nghiệp KH – CN đầu tư vào nghiên cứu ứng dụng, theo tôi Nhà nước phải có những chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, như hỗ trợ về tài chính thông qua các quỹ phát triển công nghệ. Về phía quản lý nhà nước thì xây dựng các lộ trình đổi mới KH – CN để các doanh nghiệp có định hướng đổi mới.
Thực tế không phải các doanh nghiệp KH – CN đều có đủ kinh phí xây dựng phòng nghiên cứu để phục vụ cho mục đích riêng của doanh nghiệp. Để giải quyết việc này theo kinh nghiệm của quốc tế, thì nhà nước xây dựng hệ thống phòng thí nghiệm mở. Đây là nơi các doanh nghiệp được ưu tiên sử dụng các trang thiết bị và điều kiện để phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Và đây cũng là nơi để các doanh nhân gặp gỡ và chia sẻ các ý tưởng với các nhà khoa học.
Ngoài ra, phải xây dựng được hệ thống chính sách để kết nối giữa các cơ sở khoa học và các doanh nghiệp. Chính sách này nên tập trung vào việc đẩy nhanh tiến độ chuyển giao từ các nghiên cứu khoa học sang cho doanh nghiệp để cán bộ nghiên cứu có điều kiện và trách nhiệm tham gia với các doanh nghiệp, bởi bản thân các doanh nghiệp có nguồn nhân lực làm KH – CN không nhiều.