Theo số liệu của Cục Trồng trọt, Bộ NN và PTNT, những năm gần đây, sản xuất lúa vùng ĐBSCL phát triển mạnh. Trong năm 2014, diện tích trồng lúa của vùng đạt gần 4,3 triệu lượt ha; sản lượng lúa toàn vùng đạt 25,2 triệu tấn, tăng 708.000 tấn so năm 2013, chiếm 56% sản lượng lúa cả nước, đóng góp quyết định vào thành tích xuất khẩu gạo của cả nước. Tuy nhiên, theo thống kê, tổn thất sau thu hoạch lúa hiện rất cao, khoảng từ 11- 13%, trong đó, tổn thất từ khâu phơi sấy chiếm trên 4%. Những tổn thất này khiến nhà nông thất thu hàng ngàn tỷ đồng mỗi năm.
Nguyên nhân của những tổn thất sau thu hoạch đã được nhiều chuyên gia kinh tế, nhà quản lý chỉ ra. Một nền nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún với tỷ lệ cơ giới hóa trong sản xuất, thu hoạch, bảo quản thấp đã khiến cho số lượng lớn thóc gạo rơi vãi khỏi thúng của người nông dân. Gieo cấy lúa phải có mùa, và khi cả tỉnh, cả vùng đồng loạt gieo sạ thì đến kỳ thu hoạch, số lượng máy móc gặt đập liên hoàn, dẫu được bà con mua sắm nhiều, vẫn chỉ đáp ứng được khoảng 1 nửa diện tích cần thu hoạch của vùng ĐBSCL. Vì thế, những diện tích lúa chín quá tuổi thu hoạch sẽ bị gãy rụng, vương vãi. Cùng với đó là phương thức thu hoạch thủ công bằng sức người cũng khiến thóc bị rơi rụng, mất mát nhiều.
Không chỉ thu hoạch thủ công, mà khâu phơi sấy thì phần đông nhà nông nước ta vẫn quen nhờ giời. Hiện nay, khoảng 2/3 nông dân vẫn quen phơi thóc thủ công, đặc biệt là các vùng sản xuất lúa miền Bắc, miền Trung; chỉ có 1/3 nông hộ, chủ yếu vựa lúa ĐBSCL, tiếp cận với hình thức sấy lúa. Bởi nhờ giời, mà mưa nắng thất thường và lượng nhiệt không ổn định nên chất lượng sản phẩm lúa gạo cũng giảm theo, hao hụt cũng nhiều hơn. Chưa kể, dịp thu hoạch gặp mưa lũ, lúa thu hoạch về lại trổ mầm xanh mầm trắng. Mặt khác, việc phơi sấy thủ công dẫn đến nguy cơ lớn các sản phẩm lúa gạo bị nấm, mốc hay lẫn tạp chất, đe dọa an toàn vệ sinh thực phẩm trong quá trình sử dụng.
Bên cạnh những kết quả ấn tượng về sản lượng xuất khẩu, nông nghiệp Việt Nam nói chung và ngành lúa gạo nói riêng còn đang tồn tại những vấn đề về chất lượng, giá trị gia tăng xuất khẩu và năng lực cạnh tranh còn khá thấp, cơ sở hạ tầng phục vụ chế biến bảo quản và quy mô công nghệ chế biến còn nhỏ, thiết bị lạc hậu... Điều này dẫn tới hệ quả kép là tổn thất sau thu hoạch lớn và giá trị hàng nông sản Việt Nam trên thị trường thường thấp hơn từ 15%- 50% so với sản phẩm cùng loại của nước khác. Tại phiên giải trình về Tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng nông, lâm, thủy, hải sản Việt Nam do Ủy ban Kinh tế tổ chức mới đây, Bộ trưởng Bộ NN và PTNT Cao Đức Phát cho biết, tới đây ngành sẽ triển khai nhiều biện pháp nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch lúa từ 11- 13% hiện nay xuống còn 5- 6% bằng các biện pháp cơ giới hóa thu hoạch, đầu tư máy sấy, kho chứa thóc.
Đối với biện pháp đưa máy móc hiện đại vào đồng ruộng, cơ giới hóa trong khâu thu hoạch, thực hiện thu hoạch lúa bằng máy đạt 60% vào năm 2020, trong đó khu vực ĐBSCL đạt 90%, chủ yếu sử dụng máy gặt đập liên hợp có tính năng kỹ thuật cao, mức độ gặt sót dưới 1,5%. Đầu tư phát triển các loại máy sấy phù hợp với quy mô, trình độ sản xuất, phấn đấu đến năm 2020 năng lực sấy lúa của cả nước đạt trên 80%, trong đó tỷ sấy tầng sôi, sấy tháp đạt khoảng 60%. Cùng với đó, đẩy mạnh chuyển giao các mẫu hình kho bảo quản lúa, gạo quy mô hộ gia đình theo hướng tiện ích, an toàn. Xây dựng mới và nâng cấp hệ thống kho chứa thóc, kết hợp với hệ thống sấy, làm sạch để có thể thu mua thóc ướt cho người dân vào mùa mưa lũ. Cơ giới hóa các kho đạt 80% với 20% được tự động hóa, nâng cao năng suất lao động và kiểm soát các thông số kỹ thuật trong quá trình bảo quản. Song song với đó, ngành nông nghiệp đưa ra giải pháp tăng cường đầu tư công nghệ và thiết bị nhằm tận dụng phụ phẩm lúa gạo. Toàn bộ phế phụ phẩm như trấu, cám trong xay xát lúa gạo được chế biến thành các sản phẩm có giá trị như củi trấu, trấu viên, ván ép, dầu cám, thức ăn chăn nuôi. Đối với rơm rạ, sử dụng trong sản xuất nấm, đóng bánh làm thức ăn chăn nuôi, chất đốt hay phân hữu cơ như cách làm truyền thống.
Về tài chính tín dụng, Bộ NN và PTNT cho rằng cần tăng cường nguồn vốn đầu tư Nhà nước và ưu tiên vốn ODA để đầu tư hỗ trợ phát triển lĩnh vực chế biến. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách khả thi thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào chế biến sâu, chế biến phế phụ phẩm. Trong đó, tập trung vào các chính sách hỗ trợ bảo vệ vùng nguyên liệu, xây dựng cơ sở hạ tầng, ưu đãi thuế, hợp tác công- tư trong đầu tư chế biến sản phẩm nông sản; tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận đất đai, nhất là các dự án đầu tư vào chế biến sâu sản phẩm, cụm liên hoàn sấy- bảo quản- chế biến công nghiệp để giảm tổn thất sau thu hoạch. Bảo hiểm nông nghiệp cần tập trung vào các hộ sản xuất lớn, các hộ có tham gia liên kết với các doanh nghiệp chế biến để giảm rủi ro cho các doanh nghiệp khi đầu tư vào vùng nguyên liệu.
Dẫu biết rằng nghề trồng lúa từ xưa vẫn phải trông trời, trông đất, trông mây, song đối với những phần việc trong khâu thu hoạch, phơi sấy, bảo quản mà chúng ta có thể chủ động giải quyết và giải quyết tốt hơn thì cần sớm loại bỏ tâm lý nhờ giời. Để làm được điều đó, các giải pháp trọng tâm phải là đầu tư đổi mới công nghệ, đẩy mạnh sử dụng máy móc trong thu hoạch, nâng tỷ trọng các sản phẩm chế biến sâu gắn với bảo đảm yêu cầu an toàn thực phẩm, từ đó, giải quyết bài toán giảm tổn thất sau thu hoạch cũng như nâng cao giá trị của hạt gạo, góp phần xây dựng thành công thương hiệu sản phẩm lúa gạo quốc gia.
Xuất khẩu dừa và sản phẩm chế biến có thể đạt 1,2 tỷ USD
Ông Cao Bá Đăng Khoa, Tổng Thư ký Hiệp hội Dừa Việt Nam cho biết, kim ngạch xuất khẩu dừa và sản phẩm chế biến năm nay có thể đạt 1,2 tỷ USD, tăng 15 - 20% so với năm 2023. Tuy tăng trưởng mạnh nhưng muốn bền vững, cần bảo đảm nguồn cung ổn định, chất lượng tốt và quan tâm xây dựng thương hiệu cho ngành dừa.