Trần Bạch Đằng tên thật là Trương Gia Triều, sinh ngày 15.7.1926 tại xã Hòa Thuận, huyện Giồng Riềng, tỉnh Rạch Giá, nay là tỉnh Kiên Giang, trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Là học sinh hiếu học và học giỏi, anh tốt nghiệp tiểu học loại ưu và đỗ đầu kỳ thi thuộc khóa đầu tiên của trường Pétrus Ký nay là trường chuyên Lê Hồng Phong. Tròn 17 tuổi, anh tham gia đoàn thanh niên tiền phong, sau đó được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1946, tròn 20 tuổi, anh được cử làm Thành ủy viên Thành ủy Sài Gòn và được phân công phụ trách tờ “Chống xâm lăng” - tờ báo đầu tiên của cấp ủy địa phương ra đời, chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, bảo vệ độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Năm 1951, anh được phân công phụ trách tờ Nhân dân miền Nam cho đến khi Hiệp định Geneva được ký kết vào ngày 20.7.1954.
Anh được phân công ở lại bám trụ ở miền Nam và lần lượt đảm nhiệm Bí thư Thành ủy Sài Gòn, rồi phụ trách Tuyên huấn Trung ương Cục, Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên giải phóng miền Nam Việt Nam và Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Sau Giải phóng miền Nam, đồng chí Trần Bạch Đằng được Ban Bí thư Trung ương Đảng điều làm Phó ban Dân vận - Mặt trận Trung ương do đồng chí Xuân Thủy - Bí thư Trung ương Đảng, làm Trưởng ban và sau đó là đồng chí Nguyễn Văn Linh - Ủy viên Bộ Chính trị làm Trưởng ban.
Năm 1981, đồng chí Trần Bạch Đằng được Bộ Chính trị điều về Ban Tuyên huấn Trung ương.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đồng chí Trần Bạch Đằng có nhiều tên gọi khác nhau. Đối với đồng đội, anh là Tư Ánh; đối với bạn đọc, anh là nhà báo, nhà văn Nguyễn Hiếu Trường; đối với điện ảnh, anh là nhà viết kịch Đoạn Trường Thiên Lý; còn đối với nghiên cứu, nhà phê bình văn học, anh là Trần Quang.
Tôi may mắn có thời gian 3 năm làm việc dưới sự điều hành của anh ở Ban Dân vận - Mặt trận Trung ương (từ đầu năm 1978 đến giữa 1981). Và sau này, năm 1990, nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, nhiều đồng bào trong và ngoài nước có ý kiến nên xuất bản một tập sách ghi lại giai đoạn lịch sử hào hùng, thể hiện sức mạnh đại đoàn kết dân tộc chống Mỹ cứu nước ở miền Nam Việt Nam.
Ý kiến đó được Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, đứng đầu là luật sư Nguyễn Hữu Thọ - Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đồng tình và ủng hộ. Tôi được Ban Thư ký Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam phân công giúp Ban Biên tập mà đồng chí Trần Bạch Đằng - tức anh Tư Ánh, là chủ biên giải quyết những vấn đề cần thiết trong suốt 2 năm để cuốn “Chung một bóng cờ" ra đời vào năm 1993.
Từng ấy thời gian đã giúp tôi thêm hiểu biết ít nhiều về cuộc đời và sự nghiệp của anh - đồng chí Tư Ánh, tức Trần Bạch Đằng.
Ấn tượng sâu sắc nhất về anh là hình mẫu một người cộng sản kiên trung, cả đời vì Đảng, vì dân; không sợ gian khổ, không ngại hy sinh, không ngại va chạm, dám nói. Được biết, hồi kháng chiến, anh Tư được điều về làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn vào thời điểm chính quyền Việt Nam Cộng hòa vừa hạ sát anh Phạm Văn Ngà; bắt, tra tấn đến chết giáo sư Nguyễn Văn Dưỡng; dùng nhục hình cực kỳ tàn bạo giết chết chị Nguyễn Thị Diệu - giáo viên trường Đức Trí trong lúc chị mang thai; các đồng chí Nguyễn Trọng Tuyển (tức Ba Thi) - Bí thư Tỉnh ủy Gia Định, Trần Quốc Thảo - Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, Đoàn Văn Bơ - Thường vụ Thành ủy, đã anh dũng hy sinh. Nhiều đồng chí, đồng bào yêu nước bị chúng bắt bớ, tra tấn, đày ải đến chết ở Côn Đảo. Hoạt động trong “hang cọp”, được bà con, cô bác đùm bọc, che chắn, anh Tư cùng các đồng chí còn “trụ được” trong Thành ủy dần dần khôi phục tổ chức, dựng lại phong trào, mở đầu bằng hoạt động yêu nước của giới trí thức, thanh niên, học sinh, sinh viên, phụ nữ Sài Gòn đấu tranh chống văn hóa đồi trụy của Mỹ, đòi bảo vệ và phát huy văn hóa dân tộc. Nổi lên là phong trào bảo vệ hòa bình, phong trào dân tộc tự quyết; phong trào bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ, đòi cải thiện chế độ lao tù...
Sau 21 năm "bám trụ" nơi đầu sóng, ngọn gió trong cuộc đấu tranh “một mất, một còn” để “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” với biết bao thăng trầm để có được độc lập, tự do và thống nhất nước nhà, năm 1978, anh Tư lại được Trung ương điều “tập kết” ra Bắc để đảm nhận trọng trách: Phó ban Dân vận - Mặt trận, đặc trách công tác tôn giáo - mảng công tác đặc biệt khó khăn, nhạy cảm vào thời điểm đó khi không ít đồng chí phụ trách mảng này còn coi tôn giáo là "nha phiến"...
Và với nhiệm vụ mới, đồng chí Trần Bạch Đằng được sự hỗ trợ của đồng chí Mai Chí Thọ - Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) lại một lần nữa khẳng định phẩm chất của người cộng sản kiên trung và tính bộc trực của “anh Hai Nam bộ" khi đã báo cáo thẳng với Trung ương những điều mình suy nghĩ và những việc mình làm đối với tôn giáo, đặc biệt là Thiên Chúa Giáo, mặc dù là trái với những gì đã ghi trong Nghị quyết của Trung ương. Tiếc rằng, vào thời điểm đó, nhiều kiến nghị của anh không được chấp nhận, thậm chí bị phê phán. Nhưng mừng cho anh là phần lớn những vấn đề anh kiến nghị và những việc anh làm đã được đưa vào nội dung Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 Khóa IX ngày 18.6.2004 và được luật hóa bằng Pháp lệnh về tín ngưỡng tôn giáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 29.6.2004.
Đồng chí Trần Bạch Đằng vừa là nhà hoạt động chính trị nổi tiếng, vừa là nhà báo lão thành, có uy tín hàng đầu vừa là nhà biên kịch, nhà văn xuất chúng. Anh bước vào làng báo từ năm 17 tuổi, đã từng phụ trách những tờ báo lớn như “Chống xâm lăng”, “Nhân dân miền Nam”. Với nhiệt huyết của một người cộng sản trọn đời vì nước, vì dân, những bài viết của anh trong mọi hoàn cảnh, mọi thời cuộc có sức lôi cuốn bạn đọc một cách kỳ lạ, “hừng hực" tính chiến đấu, cổ vũ, động viên cái mới, cái tiến bộ; phê phán thói hư, tật xấu, căm ghét sự nịnh bợ và giáo điều. Trước những sự kiện lớn của đất nước, anh đều góp mặt và có những tiếng nói quan trọng qua những bài viết “đầy lửa”, không “vòng vo tam quốc”, không ngại động chạm. Đặc biệt, từ khi đất nước đổi mới, theo thống kê, anh đã có trên 200 bài về đề tài này xuất hiện trên tất cả các báo lớn nhỏ, nhiều nhất là Sài Gòn giải phóng, Thanh niên, Tuổi trẻ, Phụ nữ, Đại đoàn kết... Có thể nói, tinh thần đổi mới luôn thường trực trong anh.
Đồng chí Trần Bạch Đằng có khả năng làm việc phi thường. Do đọc nhiều, biết nhiều nên anh viết nhanh, viết hay và hấp dẫn. Vào những năm 79, 80 của thế kỷ trước, những ngày thứ bảy, chủ nhật, chúng tôi thường đến ngủ cùng anh tại 36 Ngô Quyền - Nhà khách của Ủy ban Đoàn kết công giáo Việt Nam và đều có chung nhận xét: Anh thường viết thâu đêm.
Đồng chí Trần Bạch Đằng là tác giả của nhiều truyện ngắn mang tính thời sự như: “Bác Sáu Rồng”, “Một ngày của Bí thư”, “Chân dung một quản đốc”, “Ngày về của ngoại”, “Tình yêu và lời đáp”...
Không chỉ trong lĩnh vực báo chí, anh "lấn sân" cả sang điện ảnh với kịch bản phim “Ông Hai Cừ", "Dòng sông không quen" và đặc biệt là "Ván bài lật ngửa".
Một kỷ niệm khó quên mà đồng chí Trần Bạch Đằng để lại trong cán bộ Dân vận - Mặt trận chúng tôi đó là tình thương. Thấy hoàn cảnh anh em khó khăn, mỗi lần vô Nam, ra Bắc hoặc đi nước ngoài về, không nhiều thì ít, anh đều lo cho anh em trong cơ quan mỗi người vài ba cân gạo hoặc chút ít quà.