Đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản và ứng dụng trong ngành lâm nghiệp

(ĐBNDO) - Để kinh tế lâm nghiệp Việt Nam thu được nhiều kết quả, theo GS.TS VÕ ĐẠI HẢI, Giám đốc Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam, công tác nghiên cứu và ứng dụng cần phải triển khai đồng bộ theo hướng tổng hợp, bao gồm: nghiên cứu cả giá trị về kinh tế, xã hội và môi trường, không được xem nhẹ giá trị nào, phải nghiên cứu cả rừng trồng và rừng tự nhiên...

- Nghiên cứu và ứng dụng nâng cao năng năng suất, chất lượng, hiệu quả rừng trồng của Viện Khoa học Lâm nghiệp đã có những kết quả khả quan, thưa ông?

Đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản và ứng dụng trong ngành lâm nghiệp ảnh 1GS.TS Võ Đại Hải: Để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả rừng trồng, trước hết phải nâng cao năng suất và chất lượng giống cây trồng. Trong thời gian qua, Viện đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận gần 200 giống, chiếm trên 90% lượng giống cây lâm nghiệp được Bộ công nhận. Các giống được công nhận đều có năng suất cao, đạt bình quân từ 20 - 40 m3/ha/năm, tăng gấp 2 lần so với trước đây. Nhiều giống có chất lượng gỗ tốt, thân thẳng, cành nhỏ, đáp ứng được yêu cầu chế biến đồ mộc xuất khẩu chất lượng cao; tỷ lệ lợi dụng gỗ trong chế biến tăng. Một số giống như các dòng keo lai, bạch đàn lai đã được sử dụng phổ biến trong trồng rừng hiện nay với diện tích trên 400.000ha. Viện đã chuyển giao các giống gốc cho nhiều cơ sở sản xuất giống trên cả nước. 

Ngoài các loài cây nhập nội mọc nhanh, Viện đã bước đầu nghiên cứu chọn giống và biện pháp kỹ thuật gây trồng rừng gỗ lớn cho một số loài cây bản địa có triển vọng. Đối với những loài cây lâm sản ngoài gỗ, viện cũng đã xây dựng các quy trình kỹ thuật nhân giống, trồng rừng thâm canh và kỹ thuật sơ chế và chế biến cho Trám đen, Trám trắng, Dó bầu, Lai, Trúc sào, Mây nếp, Song mật, Quế, Hồi, Thảo quả và Ba kích.

Bên cạnh công tác về giống, các giải pháp kỹ thuật lâm sinh cũng góp phần nâng cao năng năng suất, chất lượng và hiệu quả rừng trồng. Trong nhiều năm qua, Viện đã tập trung nghiên cứu nhiều giải pháp để phát triển và quản lý bền vững rừng trồng kinh tế.

Về công nghiệp rừng, Viện đã nghiên cứu, chế tạo thiết bị ép và công nghệ sản xuất ván ép biến tính nhiều lớp kích thước lớn từ gỗ rừng trồng; thiết kế và chuyển giao nhiều máy băm dăm gỗ rừng trồng. Đã nghiên cứu thiết kế, xây dựng và lắp đặt thành công nhà giâm hom cây lâm nghiệp cải tiến và đã nghiên cứu công nghệ bảo quản gỗ rừng trồng để nâng cao độ bền tự nhiên gỗ. 

- Thưa Ông, chương trình rừng trồng phục vụ sản xuất đồ mộc phù hợp với điều kiện tự nhiên của Việt Nam đã mang lại kết quả như thế nào ?

 Qua nhiều năm nghiên cứu, Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam đã xây dựng hướng dẫn kỹ thuật gây trồng rừng cho 30 loài cây bản địa phục vụ công tác trồng rừng gỗ lớn, trồng rừng phòng hộ, lâm sản ngoài gỗ, làm giàu rừng, phục hồi hệ sinh thái. Ví dụ, quy trình kỹ thuật trồng rừng trên đất cát nội đồng ở vùng Bắc Trung Bộ bằng việc sử dụng giống Keo lá liềm đã cho thấy tỷ lệ sống và sinh trưởng của rừng tăng lên 30 - 50% so với phương pháp truyền thống; tăng hiệu năng phòng hộ chắn gió lên 31%; tăng khả năng chống cát bay nhờ hệ thảm tươi, thảm mục dày. Quy trình kỹ thuật trồng rừng keo trên đất phèn đã giúp chuyển đổi cơ cấu cây trồng rừng ở Tây Nam Bộ - trước đây chỉ độc canh cây Tràm.

GS.TS Võ Đại Hải: Mặc dù, kim ngạch xuất khẩu lâm sản năm 2014 đạt 6,3 tỷ USD, trong đó chúng ta xuất khẩu 6 triệu tấn dăm/năm với giá trị thu được không cao, nhưng chúng ta vẫn phải nhập khẩu 4 triệu m3 gỗ để phục vụ chế biến, chủ yếu là các loại gỗ có kích thước lớn và có chứng chỉ.   

Để trồng rừng cung cấp gỗ lớn chúng ta cần phải áp dụng đồng bộ các giải pháp về chọn tạo giống, lập địa, kỹ thuật lâm sinh… Hiện tại, Viện đang ưu tiên tập trung nghiên cứu các nhiệm vụ khoa học công nghệ: nghiên cứu hệ thống gói biện pháp kỹ thuật trồng rừng gỗ lớn cho một số loài cây chủ lực, bao gồm cả cây mọc nhanh như keo, bạch đàn và một số loài cây bản địa như: Thông, Dổi, Mỡ, Re, Sấu tía, Bời lời vàng,… Theo đó, nghiên cứu chọn tạo giống năng suất cao phù hợp với từng vùng sinh thái; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học trong nghiên cứu chọn tạo giống; Nghiên cứu chuyển gen tăng năng suất, chất lượng gỗ và gen chống chịu sâu bệnh và điều kiện bất lợi; Tập trung nghiên cứu hoàn thiện kỹ thuật nhân giống, xây dựng rừng giống và vườn giống cho các loài cây trồng rừng chủ lực, các loài cây đặc hữu có triển vọng và giá trị kinh tế cao nhằm chuyển giao và cung cấp giống chất lượng cao cho sản xuất trong nước.

Cùng với đó, nghiên cứu kỹ thuật trồng thâm canh, bao gồm cả kỹ thuật quản lý lập địa: tập trung nghiên cứu gói biện pháp kỹ thuật tổng hợp từ giống, làm đất, xử lý thực bì, thâm canh, bón chế phẩm phân giải lân khó tiêu, tỉa cành, tỉa thưa, quản lý bảo vệ rừng và nâng cao độ phì đất... cho phát triển rừng trồng sản xuất bảo đảm duy trì năng suất cao, ổn định và tạo ra sản phẩm chất lượng cao. Nghiên cứu gói kỹ thuật tối ưu hóa về chuyển hóa rừng gỗ nhỏ thành rừng cung cấp gỗ lớn. Nghiên cứu các chính sách khuyến khích và tạo động lực phát triển rừng gỗ lớn; Chính sách huy động nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước trong sản xuất kinh doanh lâm nghiệp. Ngoài ra, để thực hiện được mục tiêu trên, năm 2015 Viện đã xây dựng 1 chương trình "Nghiên cứu các cơ sở khoa học và giải pháp kỹ thuật phục vụ đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp".

Nguồn: omard.gov.vn
Nguồn: omard.gov.vn

 - Để kinh tế lâm nghiệp Việt Nam thu được nhiều kết quả, theo Ông, công tác nghiên cứu và ứng dụng cần phát triển theo hướng nào?

GS.TS Võ Đại Hải: Công tác nghiên cứu và ứng dụng cần phải triển khai đồng bộ theo hướng tổng hợp, bao gồm nghiên cứu cả giá trị về kinh tế, xã hội và môi trường, không được xem nhẹ giá trị nào. Phải nghiên cứu cả rừng trồng và rừng tự nhiên. Trong khi chúng ta ưu tiên thực hiện các nghiên cứu ứng dụng nhưng cũng cần phải đầu tư cho nghiên cứu cơ bản để hướng đến dài hạn.

Về nội dung nghiên cứu, cần tập trung theo hướng với rừng trồng: cần đẩy mạnh việc áp dụng giống mới vào trồng rừng sản xuất; quan tâm đến chất lượng giống; gắn với các biện pháp kỹ thuật lâm sinh và quản lý lập địa để nâng cao năng suất, chất lượng rừng và ưu tiên phát triển rừng trồng gỗ lớn.

Với rừng tự nhiên, không chỉ bảo vệ thuần túy mà phải áp dụng các biện pháp lâm sinh tác động vào rừng để thúc đẩy nhanh tốc độ phục hồi rừng. Tiếp tục thử nghiệm và nhân rộng các mô hình quản lý rừng cộng đồng đạt hiệu quả cao. Hoàn thiện quy chế quản lý rừng và cơ chế hưởng lợi cho các thành phần kinh tế. Nâng cao giá trị gia tăng của rừng, tiếp tục triển khai các dịch vụ môi trường rừng về khả năng hấp thụ và lưu giữ các bon gắn với REDD+ và các dịch vụ phòng hộ khác của rừng như chắn sóng, gió, bảo vệ đất, nước… Đẩy mạnh hợp tác liên doanh, liên kết với các địa phương, các doanh nghiệp trong sản xuất lâm nghiệp. Phát triển thị trường lâm sản, chú ý đến thị trường nội địa.

Về khoa học, công nghệ, cần đổi mới toàn diện các hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và khuyến nông; Nâng cao chất lượng khoa học các đề tài, dự án khoa học công nghệ lâm nghiệp, làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế rừng và đẩy mạnh công nhận, chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật và kết quả nghiên cứu trong lâm nghiệp vào sản xuất.

Về hợp tác quốc tế, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về lâm nghiệp cả chiều rộng và chiều sâu. Xây dựng các nhiệm vụ ưu tiên trong hợp tác quốc tế.

Về phát triển cơ sở hạ tầng, từng bước xây dựng, nâng cấp, hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng cho phát triển lâm nghiệp.

Về xã hội hóa nghề rừng, huy động các nguồn lực đầu tư cho bảo vệ và phát triển rừng theo hướng xã hội hóa.

- Xin cám ơn Ông !

Khoa học

Khoa học công nghệ là động lực tăng trưởng vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ
Khoa học - Công nghệ

Khoa học công nghệ là động lực tăng trưởng vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ

Khoa học công nghệ (KH-CN) và Đổi mới sáng tạo (ĐMST) là “động lực chính để thúc đẩy tăng trưởng, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả”, là nhân tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của các địa phương. Đây là đánh giá của các đại biểu tại Hội nghị giao ban Khoa học và Công nghệ vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ.

Vietcombank chú trọng chuyển đổi số, nâng cao trải nghiệm của khách hàng
Khoa học

Xung lực cho quá trình chuyển đổi số tại Vietcombank

Theo bà Đoàn Hồng Nhung, Giám đốc Khối Bán lẻ, Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank), hành lang pháp lý của Ngân hàng Nhà nước đã tạo ra cho Vietcombank rất nhiều xung lực mới cho quá trình chuyển đổi số. Gần đây nhất, trong chiến lược phát triển 5 năm, tầm nhìn 2030 của Vietcombank, lần đầu tiên Vietcombank xây dựng chiến lược phát triển song hành với chiến lược chuyển đổi số, có chương trình hành động rất rõ ràng với nền tảng cơ sở về công nghệ, dữ liệu cùng hệ thống chính sách, cơ sở pháp lý mà Ngân hàng Nhà nước đã mở ra.

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt tham quan gian hàng giới thiệu sản phẩm ứng dụng khoa học và công nghệ đem lại hiệu quả kinh tế cao
Khoa học - Công nghệ

Ứng dụng khoa học và công nghệ khai thác tiềm năng, lợi thế của địa phương

Xây dựng, hoàn thiện cơ chế chính sách thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; thúc đẩy liên kết vùng và nội vùng; ứng dụng giải pháp cảnh báo kết hợp nghiên cứu các giống cây trồng, vật nuôi thích ứng với thiên tai và biến đổi khí hậu; cải thiện chỉ số đổi mới sáng tạo địa phương... Đó là những giải pháp được đặt ra tại Hội thảo “Thúc đẩy ứng dụng công nghệ và tiến bộ kỹ thuật góp phần phát triển kinh tế - xã hội Vùng Trung du và miền núi phía Bắc nhanh và bền vững” do Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với UBND tỉnh Cao Bằng tổ chức mới đây.

Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Bế Đăng Khoa kiểm tra đề tài “Nghiên cứu bảo tồn và phát triển nguồn gen gà xương đen, thịt đen bản địa (gà Mông)
Khoa học - Công nghệ

Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước lĩnh vực khoa học và công nghệ

Khoa học và công nghệ có sự chuyển biến tích cực với nhiều thành tựu trong nghiên cứu, điều tra, góp phần tạo luận cứ khoa học cho việc xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Khoa học và công nghệ giúp nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tăng thu nhập người dân.

Hội nghị giao ban khoa học và công nghệ Vùng Trung du và miền núi phía Bắc
Khoa học - Công nghệ

Tháo gỡ triệt để các rào cản, vướng mắc

Đây là ý kiến của hầu hết đại biểu tại hội nghị giao ban khoa học và công nghệ vùng trung du và miền núi phía Bắc lần thứ XIX nhằm tổng kết, đánh giá kết quả hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong 5 năm qua và định hướng nhiệm vụ trọng tâm những năm tiếp cho sự phát triển Vùng.

Các đại biểu cắt băng khai mạc Triển lãm
Khoa học - Công nghệ

Khai mạc Triển lãm sách khoa học và công nghệ 2024

Sáng 10.10, tại Hà Nội, Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức khai mạc “Triển lãm sách khoa học và công nghệ 2024”. Tham dự sự kiện có hơn 150 đại biểu đại diện các bộ, ngành, nhà xuất bản, các nhà khoa học, giảng viên, sinh viên.

Toàn cảnh buổi lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Hội Tự động hóa Việt Nam
Khoa học

Hội Tự động hoá Việt Nam kỷ niệm 30 năm thành lập

Chiều ngày 8.10 tại Hà Nội, Hội Tự động hoá Việt Nam đã tổ chức Lễ kỉ niệm 30 năm ngày thành lập. Tham dự lễ kỷ niệm có: Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt; Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phan Xuân Dũng; Chủ tịch danh dự Vusta Đặng Vũ Minh.

Giá trị xuất khẩu nông sản năm 2023 đạt 53 tỷ USD
Khoa học - Công nghệ

Bài 3: Đóng góp hiệu quả của khoa học, công nghệ cho nông nghiệp

Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ngày càng có vai trò quan trọng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng nông nghiệp. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, khoa học, công nghệ đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Các chương trình được triển khai mang lại hiệu quả rõ rệt, góp phần tăng giá trị xuất khẩu nông sản đạt 53 tỷ USD trong năm 2023.

Các bạn trẻ tham quan Triển lãm giới thiệu thành tựu công nghệ ngành y tế năm 2024
Khoa học - Công nghệ

Bài 2: Đổi mới sáng tạo thúc đẩy phát triển ngành y tế

Trong bối cảnh nhu cầu chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam đang ngày càng tăng cao, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực y tế đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện chất lượng chăm sóc sức khỏe, tăng cường khả năng chẩn đoán và điều trị bệnh, cũng như trong phòng bệnh. Đây là những thông tin được các chuyên gia nhấn mạnh tại diễn đàn "Công nghệ sinh học và chuyển đổi số phục vụ phát triển ngành y tế" do Bộ Y tế và Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp tổ chức.

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt và các đại biểu tham quan gian hàng tại sự kiện "Kết nối công nghệ và đổi mới sáng tạo Việt Nam 2024"
Khoa học

Bài 1: Công cụ “then chốt” trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững

Vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN và ĐMST) đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và được thể hiện xuyên suốt trong các mục tiêu của Kế hoạch hành động quốc gia, là công cụ “then chốt” trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quan tâm, chỉ đạo xây dựng, ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh hoạt động ứng dụng, chuyển giao công nghệ và đổi mới sáng tạo (ĐMST), thúc đẩy thực hiện chuyển đổi xanh, chuyển đổi số trong nền kinh tế.

Tinh thần 5 "bảo đảm" trong chuyển đổi số
Infographic

Tinh thần 5 "bảo đảm" trong chuyển đổi số

Tại hội nghị trực tuyến Thường trực Chính phủ với các bộ trưởng, trưởng ngành, chủ tịch UBND tỉnh, thành phố về chuyển đổi số (ngày 19.7.2024), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số đã yêu cầu người đứng cầu các bộ, ngành, tỉnh, thành phố quyết liệt hơn trong chỉ đạo chuyển đổi số.

Tiếp tục cải thiện năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam
Khoa học

Tiếp tục cải thiện năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam

Để tiếp tục cải thiện năng lực đổi mới sáng tạo (ĐMST) quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN và ĐMST), Việt Nam cần tiếp tục chú trọng cải thiện các yếu tố đầu vào và đầu ra của ĐMST, trong đó, tập trung vào những chỉ số đang được xếp vào nhóm yếu, hoặc có xu hướng giảm.

Áp dụng TPM – giải bài toán cắt giảm chi phí bảo trì cho doanh nghiệp
Khoa học - Công nghệ

Áp dụng TPM – giải bài toán cắt giảm chi phí bảo trì cho doanh nghiệp

Với các chi phí duy trì hoạt động cho máy móc thiết bị tăng dần qua các năm, chi phí bảo trì đã trở thành một bài toán cho các doanh nghiệp. Chính vì vậy, nhà sản xuất cần phải có một kế hoạch cụ thể để duy trì và bảo dưỡng máy móc khi gặp sự cố hoặc hỏng hóc và TPM đã trở thành một giải pháp được đưa ra nhằm giải đáp bài toán cắt giảm chi phí bảo trì hiệu quả cho doanh nghiệp.

Tối ưu hóa hiệu quả trong lĩnh vực y tế nhờ AI
Khoa học

Tối ưu hóa hiệu quả trong lĩnh vực y tế nhờ AI

Trí tuệ nhân tạo có thể tối ưu hóa việc chẩn đoán bệnh, quản lý hồ sơ y tế, hỗ trợ điều trị, phân tích dữ liệu gene, đề xuất phương pháp điều trị ung thư cho bệnh nhân... Đó là chia sẻ về ứng dụng AI trong y tế - một chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp... tại workshop "Ứng dụng AI trong lĩnh vực y tế" trong khuôn khổ AI4VN.