Thế giới đang đứng trước một cột mốc đặc biệt về nhân khẩu học, khi chẳng bao lâu nữa tỷ lệ sinh toàn cầu sẽ giảm xuống dưới mức cần thiết để có thể duy trì dân số ở mức hiện tại. Điều này sẽ tác động lớn đến các sinh hoạt của con người, sự phát triển của các nền kinh tế và thậm chí cả vị thế của các nước siêu cường.
Nỗi lo một xã hội ít trẻ em chưa từng thấy
Theo tờ Wall Street Journal, tại hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới, tỷ lệ sinh đang có xu hướng giảm ở nữ giới thuộc tất cả các nhóm thu nhập, trình độ học vấn và mức độ tham gia lực lượng lao động. Các yếu tố nhân khẩu học thường diễn ra chậm chạp, song sự suy giảm tỷ lệ sinh đột ngột (baby bust) lại diễn ra đặc biệt nhanh và trên diện rộng.
Các nhà nhân khẩu học nhận định rằng, mức sinh thay thế (replacement rate) là khoảng 2,2, có nghĩa là số lượng trẻ em mà mỗi phụ nữ cần có để duy trì dân số toàn cầu là 2,2 con/phụ nữ. Tuy nhiên, tại Mỹ, trong năm 2023, con số này từ lâu đã giảm xuống con số thấp nhất trong lịch sử là 1,62 con/phụ nữ. Và Hàn Quốc hiện là quốc gia có tỷ lệ sinh thấp nhất thế giới, chỉ 0,62 con/phụ nữ. Một số nhà nhân khẩu học dự báo dân số thế giới có thể sẽ bắt đầu giảm mạnh trong vòng 40 năm tới.
Tại một số nước thu nhập cao, tỷ lệ sinh giảm xuống dưới mức sinh thay thế vào những năm 1970, và các nước đang phát triển cũng không thể tránh khỏi được tình trạng này. Vào năm ngoái, mặc dù Ấn Độ đã vượt Trung Quốc trở thành nước đông dân nhất thế giới, nhưng quốc gia này vẫn ghi nhận tỷ lệ sinh thấp hơn mức sinh thay thế, ở mức 2 con/phụ nữ. Nhà kinh tế chuyên về nhân khẩu học Jesús Fernández-Villaverde của Đại học Pennsylvania cho biết: “Mùa đông nhân khẩu học đang tới rồi” - đây là cụm từ thường được nhắc đến khi nói về tình trạng già hóa dân số kéo dài nhiều năm qua.
Trước tình trạng ngày càng đáng lo ngại, chính phủ các nước giờ xem đây là một vấn đề cấp bách quốc gia vì lo sợ lực lượng lao động suy giảm nhanh chóng, khiến cho tăng trưởng kinh tế tụt dốc, các quỹ hưu trí sẽ rơi vào khủng hoảng tài chính, và nỗi lo về một xã hội ngày càng ít trẻ em chưa từng thấy trong lịch sử. Trước đó, Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida phát biểu rằng, chứng kiến mức sinh (birthrate) sụt giảm mạnh khiến quốc gia này đứng trước câu hỏi rằng “liệu chúng tôi có thể tiếp tục duy trì chức năng như một xã hội hay không”.
Sự suy giảm dân số cùng sự phân ly trên toàn cầu đang khiến các bên đặt câu hỏi rằng liệu các quốc gia siêu cường như Mỹ, Trung Quốc… có thể duy trì vị thế của mình.
Áp lực kinh tế gia tăng
Xu hướng tỷ lệ sinh ngày càng kéo dài, sẽ kéo theo áp lực kinh tế ngày càng gia tăng, cũng như tình trạng thiếu lao động ngày càng trở nên phổ biến ở khắp các nước phát triển. Những thách thức này sẽ trở nên tồi tệ hơn khi tỷ lệ sinh giảm trong những năm tới, khiến dòng lao động trẻ ngày càng thu hẹp, từ đó gây thêm áp lực cho hệ thống chăm sóc sức khỏe và hưu trí.
Trong một báo cáo mới đây của Ngân hàng Thế giới (WB), nhà nhân khẩu học tại Hedgeye Risk Management Neil Howe đã chỉ ra rằng, tình trạng nhân khẩu học ngày càng tồi tệ có thể khiến đây trở thành “thập kỷ mất mát” thứ hai liên tiếp đối với tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Thông thường, các quốc gia phát triển sẽ hướng tới giải pháp là tăng lượng người nhập cư, nhưng giải pháp này sẽ kéo theo hai vấn đề lớn. Khi ngày càng nhiều quốc gia phải đối mặt với tình trạng dân số trì trệ, việc nhập cư giữa các quốc gia là một trò chơi có tổng bằng không.
Khi các nước phát triển nỗ lực lấp đầy những vị trí việc làm còn trống bằng cách tìm kiếm những người di cư có tay nghề thông qua các kênh chính thức, hợp pháp, tuy nhiên dòng vốn gần đây chủ yếu là những người di cư không có tay nghề, thường vào bất hợp pháp và xin tị nạn. Hơn nữa, mức độ nhập cư tăng mạnh hiện nay khiến cho Chính phủ các nước trở nên áp lực vì ngày càng khó kiểm soát, cũng như lo ngại về sự thay đổi văn hóa và nhân khẩu học. Dân số bản địa ngày càng giảm có thể làm tăng thêm những mối lo ngại như vậy. Chính vì vậy, các chuyên gia về nhân khẩu học thường phản đối mạnh mẽ biện pháp tăng cường lượng người nhập cư.
Thêm vào đó, khi tỷ lệ sinh giảm, nhiều khu vực và cộng đồng phải đối mặt với tình trạng giảm dân số, dẫn đến nhiều hậu quả từ trường học đóng cửa đến giá trị tài sản trì trệ. Một nền kinh tế có ít trẻ em hơn sẽ gặp khó khăn trong việc tài trợ lương hưu và chăm sóc sức khỏe cho tầng lớp người già ngày càng tăng.
Nỗ lực của các chính phủ
Các chính phủ hiện đang nỗ lực đảo ngược tình trạng tỷ lệ sinh giảm, khuyến khích người dân sinh đẻ thông qua các chính sách hỗ trợ.
Có lẽ không nước nào nỗ lực cải thiện tình trạng này lâu hơn Nhật Bản. Bên cạnh những chính sách hỗ trợ đã được quốc gia này áp dụng trong nhiều năm qua như miễn phí chăm sóc thai sản tại bệnh viện và trợ cấp tiền cho các gia đình theo số con, Thủ tướng Fumio Kishida tiếp tục triển khai chương trình mới, trong đó tăng mức trợ cấp hàng tháng cho tất cả trẻ em dưới 18 tuổi bất kể thu nhập; miễn học phí đại học cho các gia đình có 3 con; đồng thời khuyến khích áp dụng chế độ làm việc 4 ngày/tuần. Bên cạnh đó, Chính phủ Nhật Bản cũng đang xem xét kế hoạch chi trả đầy đủ chi phí sinh con cho người dân thông qua hệ thống bảo hiểm y tế công cộng từ năm tài chính 2026, để người dân không phải chịu bất cứ chi phí sinh nở nào.
Đối với quốc gia đang chứng kiến tỷ lệ sinh thấp nhất hiện nay, Hàn Quốc dự kiến xây thêm nhiều nhà ở công cộng, đưa ra các khoản vay lãi suất thấp, nhằm tạo động lực và giảm bớt gánh nặng cho các hộ gia đình trẻ. Ngoài ra, Chính phủ sẽ trợ cấp cho các cặp vợ chồng không sở hữu nhà, đồng thời hỗ trợ 300.000 won (334 USD) mỗi tháng, tối đa trong 2 năm, cho các bé sinh từ năm 2025.
Tại Singapore, nhằm giảm bớt chi phí nuôi dạy con, Chính phủ đã tích cực thúc đẩy các chương trình tài trợ tiền mặt trị giá 10.000 SGD, cho các bé mới sinh. Số tiền này sẽ tăng lên 13.000 SGD nếu gia đình sinh thêm bé thứ ba. Bên cạnh việc hỗ trợ tiền mặt, chương trình này còn cung cấp một tài khoản phát triển trẻ em, với khoản tiền gửi ban đầu là 5.000 SGD. Ngoài ra, các bé học mẫu giáo từ 18 tháng đến 6 tuổi cũng được Chính phủ hỗ trợ từ 150 - 600 SGD mỗi tháng, tùy theo tình trạng công việc của cha mẹ.
Trong khi đó, tại Hungary, Thủ tướng Viktor Orban đang thúc đẩy một trong những chương trình nghị sự về sinh con đầy tham vọng nhất của châu Âu. Năm ngoái, ông đã mở rộng quyền lợi thuế cho các bà mẹ để phụ nữ dưới 30 tuổi có con được miễn thuế thu nhập cá nhân trọn đời. Ngoài ra còn có các chính sách trợ cấp nhà ở và chăm sóc trẻ em, cùng với chế độ nghỉ thai sản hào phóng.
Tỷ lệ sinh của Hungary, mặc dù vẫn thấp hơn nhiều so với mức sinh thay thế, đã tăng lên từ năm 2010. Nhưng Viện Nhân khẩu học Vienna cho rằng, sự gia tăng này chủ yếu bắt nguồn từ những phụ nữ trì hoãn sinh con do cuộc khủng hoảng nợ xảy ra vào khoảng năm 2010, do đó nếu trừ những trường hợp này, tỷ lệ sinh của quốc gia này chỉ tăng nhẹ.
Dù nhiều chính phủ khác trên thế giới cũng có các chương trình tương tự nhằm ngăn chặn sự suy giảm tỷ lệ sinh nhưng hiệu quả không đáng kể. Thế giới vẫn đang đứng trước một cuộc khủng hoảng nhân khẩu học nghiêm trọng đòi hỏi có những biện pháp căn cơ và quyết liệt hơn nữa.