Tổng cục Hải quan cho biết, trong năm 2023, tổng trị giá xuất nhập khẩu của cả nước đạt 681,04 tỷ USD, giảm 6,9%, tương ứng giảm 50,25 tỷ USD về số tuyệt đối so với năm trước. Trong đó, xuất khẩu đạt 354,67 tỷ USD, giảm 4,6% (tương ứng giảm 17,05 tỷ USD); nhập khẩu đạt 326,37 tỷ USD, giảm 9,2% (tương ứng giảm 33,20 tỷ USD).
Sự sụt giảm xuất khẩu diễn ra ở hầu hết các nhóm hàng chủ lực. Trong đó, nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện giảm về số tuyệt đối mạnh nhất, với mức 5,61 tỷ USD, tương ứng giảm 9,7% và đạt kim ngạch xuất khẩu là 52,38 tỷ USD.
Tiếp đến là hàng dệt may với mức giảm 4,27 tỷ USD, tương ứng giảm 11,4%, đạt trị giá xuất khẩu 33,33 tỷ USD; giày dép các loại giảm 3,66 tỷ USD, tương ứng mức giảm 15,3%, đạt 20,24 tỷ USD; gỗ và sản phẩm gỗ giảm 2,55 tỷ USD, tương ứng giảm 15,9%, trị giá xuất khẩu đạt 13,47 tỷ USD; hàng thủy sản giảm 1,95 tỷ USD, tương ứng mức giảm 17, 8%, trị giá xuất khẩu đạt 8,97 tỷ USD.
Ở chiều ngược lại, xuất khẩu đã ghi nhận đà tăng trưởng ở một số nhóm hàng.
Dẫn đầu là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, với trị giá xuất khẩu cả năm 2023 đạt 57,34 tỷ USD, tăng 3,2%, tương ứng tăng 1,8 tỷ USD so với năm trước. Trong đó, xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện sang Hoa Kỳ là 17,02 tỷ USD, tăng 6,8%; Trung Quốc là 13,05 tỷ USD, tăng 9,8%; EU (27 nước) là 6,05 tỷ USD, giảm 14%; Hồng Kông là 5,54 tỷ USD, giảm 5,8% so với năm trước.
Xuất khẩu hàng rau quả cũng ghi nhận tăng trưởng khi đạt tới 5,6 tỷ USD, tăng 66,7%, tương ứng tăng 2,24 tỷ USD. Tương tự, xuất khẩu phương tiện vận tải và phụ tùng khác đạt trị giá xuất khẩu 14,16 tỷ USD, tăng 18,1% (tương ứng tăng 2,17 tỷ USD) so với 2022.
Đáng chú ý, năm 2023 cũng ghi nhận mức tăng trưởng mạnh của xuất khẩu gạo, khi đạt tới 8,1 triệu tấn, tăng 14,4% và trị giá đạt 4,68 tỷ USD, tăng 35,3% so với năm trước.
Trong năm 2023, ASEAN là thị trường xuất khẩu chính của gạo Việt Nam, chiếm tới 61% trong tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Cụ thể, xuất khẩu gạo sang ASEAN đạt 4,9 triệu tấn, tăng 24% so với năm trước. Ngoài ra, gạo Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường khác như Trung Quốc đạt 917 nghìn tấn, tăng 8%; Ghana đạt 587 nghìn tấn, tăng 32,9% so với năm trước.
Ở chiều ngược lại, năm 2023, có tới 42/53 nhóm hàng chủ lực có trị giá nhập khẩu giảm so với năm trước. Trong đó, giảm mạnh nhất là các nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện (giảm 12,38 tỷ USD); máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng (giảm 3,56 tỷ USD); linh kiện, phụ tùng ô tô (giảm 1,73 tỷ USD); vải các loại (giảm 1,69 tỷ USD).
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện là nhóm hàng duy nhất có mức tăng nhập khẩu trên 1 tỷ USD với trị giá đạt 87,96 tỷ USD, tăng 6,1 tỷ USD so với năm 2022.
Các đối tác chính cung cấp nhóm hàng này cho Việt Nam là: Hàn Quốc đạt 28,75 tỷ USD, tăng 23,9% tương ứng tăng 5,56 tỷ USD; Trung Quốc đạt 23,41 tỷ USD, giảm 2,7% tương ứng giảm 652 triệu USD; Đài Loan đạt 10,18 tỷ USD, giảm 8% tương ứng giảm 886 triệu USD so với năm trước.