ĐBQH TP HÀ NỘI, VIỆN TRƯỞNG VIỆN NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐINH XUÂN THẢO cho rằng, làm Luật Tổ chức QH vừa gần gũi, cụ thể vì nó liên quan đến hoạt động hàng ngày, hàng giờ của ĐBQH. Đồng thời cũng rất thiêng liêng, vì đây là đạo luật quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước. Từ đó, mỗi ĐBQH cũng đặt lên mình trách nhiệm cao hơn, để khi quyền lợi, nghĩa vụ được bảo đảm, thì QH, ĐBQH cũng phải phát huy và sử dụng xứng đáng với quyền lợi, nghĩa vụ được giao phó.
- Hiện nay, các ĐBQH đã và đang tiến hành tiếp xúc cử tri báo cáo kết quả Kỳ họp thứ Bảy. Cử tri Thủ đô đánh giá như thế nào về Kỳ họp lần này của QH, thưa Viện trưởng?
- Kỳ họp thứ Bảy diễn ra đúng thời điểm Trung Quốc vừa hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của nước ta. Trong bối cảnh đó, Kỳ họp QH trở thành một trong những tâm điểm, thu hút sự chú ý của đông đảo cử tri và toàn xã hội. Các ĐBQH, những người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân rất quan tâm, thảo luận về tình hình ở Biển Đông. Cử tri và nhân dân đánh giá cao việc QH đã sớm có tiếng nói thể hiện quan điểm kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia, thể hiện trong Thông cáo số 2 của Kỳ họp.
Như thông lệ, tại Kỳ họp lần này, QH tiếp tục tập trung vào ba chức năng cơ bản là lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Về lập pháp, Kỳ họp thứ Bảy là kỳ họp đầu tiên làm luật, cụ thể hóa theo Hiến pháp mới. Các dự án luật trình QH tại Kỳ họp tập trung chủ yếu vào 3 nhóm vấn đề: nhóm tổ chức bộ máy nhà nước; nhóm về quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân; và nhóm luật về kinh tế… Các dự án luật cơ bản cụ thể hóa đúng tinh thần Hiến pháp mới. Đối với các luật về tổ chức bộ máy Nhà nước, các ĐBQH đều quan tâm nghiên cứu, bảo đảm nguyên tắc phân công, phối hợp, có sự kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, tư pháp và hành pháp. Những dự án luật liên quan đến quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền con người đều thể hiện được tinh thần lấy dân làm gốc, dân là chủ thể của quyền lực nhà nước.
Một ưu điểm nữa của hoạt động lập pháp tại Kỳ họp thứ Bảy là các ý kiến thảo luận của ĐBQH ngày càng tích cực, sôi nổi. Tôi cho rằng, đây là hiệu quả từ Nghị quyết số 27/2012/QH13 về một số cải tiến, đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của QH. Theo đó, ĐBQH được sử dụng chế độ thuê chuyên gia, phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, tư vấn về các dự án luật, lĩnh vực ĐBQH quan tâm. Đa số ĐBQH đã phát huy được hiệu quả kinh phí, nhiều bài phát biểu có chất lượng, được nghiên cứu sâu. Điều đó cho thấy chủ trương, chính sách đưa ra là phù hợp, nhất là trong bối cảnh nước ta đa số là ĐBQH kiêm nhiệm, chưa có thư ký giúp việc riêng cho từng ĐBQH.
Giám sát tiếp tục chọn đúng và trúng nội dung người dân, cử tri quan tâm. Giám sát chuyên đề về việc thực hiện chính sách, pháp luật về giảm nghèo giai đoạn 2005 – 2012 đã đánh giá thẳng thắn, trực diện vào những thành tựu, hạn chế của công tác giảm nghèo. Trên cơ sở đó, QH tiếp tục ban hành Nghị quyết về việc đẩy mạnh mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020. Nghị quyết đặt mục tiêu trong 5 năm 2016 – 2020, hạn chế thấp nhất tình trạng tái nghèo. Tăng nguồn lực đầu tư và cân đối nguồn lực trung hạn của Nhà nước cho các chính sách, chương trình giảm nghèo, lựa chọn chính sách ưu tiên để phân bổ sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn lực; bảo đảm lồng ghép chính sách và nguồn lực có hiệu quả. Nghị quyết cũng đề xuất giải pháp khắc phục hạn chế trong thực tiễn thực hiện công tác giảm nghèo giai đoạn 2005 – 2012. Tiếp tục bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống người dân, đặc biệt là người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống lá lành đùm lá rách của dân tộc; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với Nhà nước.
QH cũng đưa ra những biện pháp hoàn thành kế hoạch kinh tế - xã hội 6 tháng cuối năm 2014, trong đó có sự điều chỉnh thu chi ngân sách năm 2013. Kịp thời thống nhất các giải pháp hỗ trợ ngư dân và cảnh sát biển với gói hỗ trợ 16.000 tỷ đồng. Như vậy, rõ ràng QH tiếp tục bám sát đời sống, diễn biến kinh tế - xã hội của đất nước để đưa ra những quyết định hợp lòng dân.
- Với các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, một trong những nội dung hiến định cần được cụ thể hóa là nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nguyên tắc này đã được cụ thể hóa như thế nào trong các dự luật về tổ chức bộ máy tại Kỳ họp thứ Bảy, thưa Viện trưởng?
- Tại Kỳ họp thứ Bảy, QH xem xét 3 dự án Luật về tổ chức bộ máy nhà nước là: dự án Luật Tổ chức QH (sửa đổi), dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) và dự án Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi). Theo chương trình, các dự án Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi), Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật tổ chức đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt sẽ được thảo luận tại Kỳ họp thứ Tám tới. Có ý kiến cho rằng, việc sửa đổi các Luật về tổ chức bộ máy nhà nước, nếu không đồng nhất thì sẽ khó để thể chế hóa, cụ thể hóa một cách đồng bộ, đúng tinh thần Hiến pháp về nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình đóng góp ý kiến xây dựng bất cứ một dự án luật nào thì quan điểm dự án luật phải có tầm nhìn tổng thể là yêu cầu tất yếu mà mỗi ĐBQH đều tâm niệm. Làm luật tổ chức bộ máy nhà nước phải bảo đảm cho bộ máy nhà nước mạnh, bảo đảm sự phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước giữa hành pháp, tư pháp và lập pháp. Điều này đòi hỏi chúng ta phải hiểu đúng nội hàm của quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, không đan xen, trùng lắp giữa các quyền. Thực hiện tách bạch quyền của từng hệ thống cơ quan. Ngay trong quá trình thảo luận về bộ máy tư pháp, nhiều ĐBQH cũng có ý kiến về việc kiểm soát quyền lực của các cơ quan tư pháp. Cụ thể, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân được xác định làm chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Kiểm sát xuôi chiều thì dễ, nhưng còn ngược chiều, hay kiểm sát của Tòa án nhân dân với cơ quan kiểm sát, cơ quan điều tra như thế nào cũng cần phải làm rõ. Tôi tin tưởng, với việc huy động trí tuệ của 500 ĐBQH, với một QH ngày càng minh bạch, sáng suốt, chắc chắn sẽ bảo đảm các luật về tổ chức bộ máy nhà nước sẽ cụ thể hóa đúng tinh thần của Hiến pháp mới.
- Trong quá trình thảo luận về dự án Luật Tổ chức QH (sửa đổi) tại Kỳ họp, một số ĐBQH đã kiến nghị QH xem xét nâng cấp Viện Nghiên cứu lập pháp thành một cơ quan của QH. Là người trực tiếp chỉ đạo công việc và hoạt động của Viện, Viện trưởng có tán thành với kiến nghị này không?
- Trong dự thảo Luật Tổ chức QH (sửa đổi) trình QH tại Kỳ họp thứ Bảy tiếp tục đặt Viện Nghiên cứu lập pháp là cơ quan thuộc UBTVQH. Tuy nhiên, cá nhân tôi cũng như một số ĐBQH cho rằng Viện Nghiên cứu lập pháp nên là cơ quan trực thuộc QH. Bởi lẽ, về cơ sở chính trị, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24.5.2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã nhấn mạnh: thành lập Viện Nghiên cứu lập pháp của QH và coi đó là một trong những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của QH. Đây cũng là căn cứ để ngày 29.4.2008, UBTVQH ban hành Nghị quyết số 614/2008/UBTVQH12 về việc thành lập Viện Nghiên cứu lập pháp.
Về pháp lý, Luật Khoa học và công nghệ năm 2013, tại Điều 12, khoản 1, điểm a nêu rõ: QH, UBTVQH thành lập tổ chức khoa học và công nghệ thuộc QH, UBTVQH. Quy định như vậy cũng là định hướng để trước hết, thành lập Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc UBTVQH, sau đó nâng Viện Nghiên cứu lập pháp thành cơ quan thuộc QH. Trong 3 Nghị quyết, Nghị quyết 27/2012/QH13 của QH về một số cải tiến, đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của QH; Nghị quyết 45/2013/QH13 ngày 18.6.2013 về việc điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ QH Khóa XIII năm 2013 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014, và mới đây nhất, tại Kỳ họp thứ Bảy, QH thông qua Nghị quyết về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh Khóa XIII và năm 2014 của QH đều quy định: khi ĐBQH có đề nghị, kiến nghị về luật, pháp lệnh, Viện Nghiên cứu lập pháp có trách nhiệm tư vấn, hỗ trợ ĐBQH trong việc lập, hoàn thiện hồ sơ theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trình UBTVQH, QH xem xét đưa vào chương trình.
Tư cách pháp lý và cơ sở chính trị đã có. Vậy nên, Viện cũng phải được xem xét, tính toán để nâng lên là cơ quan thuộc QH, bảo đảm phát huy vai trò là cơ quan nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về tổ chức và hoạt động của QH; tổ chức thông tin khoa học để hỗ trợ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của QH, các cơ quan của QH và ĐBQH.
- Vậy còn từ góc độ cơ sở thực tiễn thì sao, thưa Viện trưởng?
- Viện đã chính thức đi vào hoạt động được 6 năm. Trước đó, tổng kết 5 năm hoạt động cho thấy: Viện Nghiên cứu lập pháp đã dần lớn mạnh, ngày càng xứng đáng là vai trò nghiên cứu, thông tin, hỗ trợ cho các hoạt động của QH. Viện cũng triển khai thực hiện tốt một số nhiệm vụ nghiên cứu theo yêu cầu của Đảng đoàn QH như: tổ chức nghiên cứu và phục vụ Đảng đoàn QH hoàn thiện Đề án về sở hữu các loại tài sản mới, được Bộ Chính trị thông qua vào cuối năm 2010, triển khai sơ kết công tác thực hiện Nghị quyết số 48 – NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Triển khai nhiệm vụ nghiên cứu chuyên sâu như tham gia phục vụ việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, lãnh đạo Viện trực tiếp tham gia Ban Biên tập sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Về công tác thông tin, tính từ khi thành lập đến hết Kỳ họp thứ Năm, QH Khóa XIII, Viện đã xuất bản được 7 cuốn sách, tổ chức biên soạn 36 chuyên đề thông tin, trả lời 15.616 phiếu/15.794 phiếu gồm 38.522 câu hỏi, yêu cầu cung cấp thông tin của ĐBQH, đạt tỷ lệ 98,8%; cung cấp 6.297 thông tin chuyên đề, hàng nghìn sách nghiên cứu và nhiều tài liệu là biên bản hội trường, điều tra xã hội học, thông tin dạng số liệu, tin hình, tư liệu hình ảnh, văn bản pháp quy, biên dịch được nhiều ấn phẩm, tài liệu khoa học trong và ngoài nước. Mối quan hệ của Viện với các trung tâm nghiên cứu trong và ngoài nước ngày càng được xây dựng, củng cố. Viện cũng thu hút khoảng 300 chuyên gia, cộng tác viên là các nhà khoa học, các chính trị gia tham gia đóng góp cho hoạt động của Viện. Phối hợp với trung tâm nghiên cứu nước ngoài thực hiện nhiều đề tài, đề án hữu ích làm tài liệu tham khảo cho ĐBQH, QH. Vai trò của Viện được Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng ghi nhận, đánh giá cao và khẳng định: Viện đã góp phần tích cực vào tiến trình đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, quyết sách những vấn đề quan trọng của QH.
Nhìn ra thế giới, kinh nghiệm nhiều nước đều có Viện Nghiên cứu thuộc QH. Ví dụ như Nga, Mỹ, Hàn Quốc, Ukraine... Ở nước ta, đã đến lúc cần hướng tới, xây dựng Viện Nghiên cứu lập pháp trở thành diễn đàn hội tụ các nhà khoa học uy tín đến từ các cơ sở nghiên cứu đào tạo, các cơ quan quản lý nhà nước trong nước và ngoài nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong nghiên cứu khoa học, phục vụ tốt hơn công tác lập pháp của QH. Muốn vậy, Viện Nghiên cứu lập pháp phải được định hướng phát triển thành cơ quan của QH.
- Thực tế, khi Viện Nghiên cứu lập pháp là cơ quan thuộc UBTVQH, Viện có gặp khó khăn gì trong tổ chức, hoạt động của mình hay không, thưa Viện trưởng?
- Ở giai đoạn đầu, Viện Nghiên cứu lập pháp trực thuộc UBTVQH là hợp lý. Vì lực lượng của Viện còn mỏng, số lượng các chuyên gia tập hợp giúp hoạt động của Viện chưa nhiều. Giai đoạn hiện nay và sắp tới, hướng tới QH chuyên nghiệp, hiệu quả hơn, phải có Viện Nghiên cứu đúng tầm hơn, tương thích hơn với hoạt động của QH, giúp ĐBQH, QH hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ lập pháp.
- Theo Viện trưởng, nếu Viện được nâng cấp thành cơ quan của QH, tổ chức bộ máy của Viện có phải thay đổi để bảo đảm tính phù hợp, hiệu quả hơn trong hoạt động hay không?
- Khi Viện là cơ quan của QH, cơ cấu tổ chức bộ máy của Viện phải tổ chức lại phù hợp hơn. Viện cần có các Ban chuyên môn tương thích với hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban. Ví dụ: Trong Viện có Ban Dân sự kinh tế, Ban hình sự hành chính… nhằm bảo đảm tính chuyên sâu trong từng lĩnh vực nghiên cứu, phục vụ tốt hơn cho hoạt động của QH. Khi vị thế, vai trò được nâng lên, Viện có đủ tầm và điều kiện hơn để trao đổi, đối tác với các trung tâm nghiên cứu khoa học trên thế giới. Tăng cường hợp tác với Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của QH. Đồng thời thu hút được đông đảo lực lượng phục vụ cho hoạt động của Viện. Chẳng hạn: ĐBQH khi hết nhiệm kỳ, không tái ứng cử, chưa đến tuổi nghỉ hưu, có thể trở thành chuyên gia, cộng tác viên nghiên cứu khoa học của Viện; bảo đảm đội ngũ cán bộ, chuyên gia có kinh nghiệm thực tiễn, có hàm lượng chất xám cao tham gia hoạt động của Viện.
Tôi cũng đề nghị Báo ĐBND cần được nâng cấp lên thành cơ quan thuộc UBTVQH. QH chuyên nghiệp, hiệu quả, cơ quan ngôn luận của QH cũng phải được đặt đúng tầm để đưa QH đến gần dân hơn, phản ánh đầy đủ hơn nữa hoạt động của QH, HĐND.
- Xin cám ơn Viện trưởng!