Hội nghị ĐBQH chuyên trách thảo luận dự án Luật Ban hành văn bản pháp luật

Tuân thủ Hiến pháp, tính thứ bậc về hiệu lực pháp lý rõ ràng và kỷ luật ban hành văn bản phải nghiêm

Thảo luận về dự án Luật Ban hành văn bản pháp luật tại Hội nghị ĐBQH chuyên trách, các ĐBQH nhất trí phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật chỉ nên tập trung vào văn bản quy phạm pháp luật và đổi tên thành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nhấn mạnh ý nghĩa của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là luật để làm luật, luật về công nghệ làm luật, các ĐBQH cũng nêu rõ: không thể tùy tiện quy định cơ quan nào, cấp nào được ban hành văn bản quy phạm pháp luật vì trong một hệ thống, văn bản nào cũng có vai trò riêng. Điều quan trọng là quy định rõ các nguyên tắc trong Luật này để bảo đảm các văn bản quy phạm pháp luật phải tuân thủ Hiến pháp, luật; tính thứ bậc về hiệu lực pháp lý phải rõ ràng, minh bạch và kỷ luật ban hành văn bản phải nghiêm.

Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga: Phản biện độc lập về chính sách phải là một quy trình bắt buộc trong suốt quá trình xây dựng, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra và trình QH
 
Dự án Luật này có 3 vấn đề quan trọng.

Một là, tính khả thi của các văn bản quy phạm. Khi làm luật này, chúng ta phải trả lời một câu hỏi là: vì sao, trong thời gian qua, có một số quy định trong một số văn bản, kể cả văn bản luật, văn bản dưới luật và văn bản quy phạm khi đưa ra thực thi trong xã hội thì tính khả thi không cao? Cử tri rất khen các cơ quan nhà nước, khen QH là số lượng văn bản chúng ta ban hành được nhiều, nhưng chất lượng một số văn bản có vấn đề. Theo tôi, ngoài những vấn đề về tổ chức thực hiện thì ở đây có 3 điểm ở trong luật này phải điều chỉnh.

Thứ nhất, quy định về đánh giá tác động của chính sách. Nhiều bản đánh giá tác động của các dự thảo văn bản vừa qua rất hình thức. Phần tổ chức thực hiện, tôi không bàn ở đây, nhưng phần quy trình trong luật, tôi cho rằng phải quy định thật kỹ. Hiện nay, nội dung về đánh giá tác động đang được quy định ở Điều 32. Cụ thể, khoản 2 quy định: Báo cáo đánh giá tác động phải quy định vấn đề bất cập và nội dung của chính sách là gì, mục tiêu ban hành chính sách là để giải quyết các vấn đề bất cập, các giải pháp, các tác động tích cực, tiêu cực của chính sách, chi phí... Tôi đồng ý với ĐBQH Nguyễn Công Hồng là muốn báo cáo đánh giá tác động đi vào thực chất thì phải quy định tiêu chí của báo cáo này gồm những nội dung gì. Những tiêu chí đề cập trong khoản 2, Điều 32 có 3 tiêu chí giống với tiêu chí của sự cần thiết ban hành, mục đích, quan điểm xây dựng pháp lệnh và mục đích, nội dung của chính sách. Khoản 1, Điều 32 là nội dung tờ trình lại giống với khoản 2, Điều 32 là những nội dung trong báo cáo đánh giá tác động. Chúng tôi đề nghị cân nhắc để tách 2 vấn đề này ra và làm rõ tiêu chí của báo cáo đánh giá tác động là những nội dung gì, tránh tình trạng hình thức như vừa qua. Không thể quy định chồng lên nhau như thế này được. Nếu như báo cáo đánh giá tác động mà hình thức thì những chính sách trong đó khó có thể khả thi được.

Thứ hai, lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Đây là vấn đề rất lớn. Một số quy định vừa rồi, nhất là một số văn bản dưới luật, kể cả quy định trong một số luật vừa đưa ra đã bị dư luận phản ứng. Tôi cho rằng, trong quy trình lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản, chúng ta làm chưa đầy đủ, có một số trường hợp làm hình thức. Hiện nay, việc lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động được quy định ở các quy trình: soạn thảo; thẩm định; thẩm tra; trình ra QH. Theo tôi, phải quy định cụ thể và bắt buộc việc lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động cho đến quy trình cuối cùng là đưa ra cho người có thẩm quyền quyết định và ban hành.

Thứ ba là phản biện độc lập về chính sách. Đây là vấn đề rất quan trọng. Khoản 8, Điều 4 chỉ nói chung chung về mặt nguyên tắc có ý kiến phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và một số điều khác có nói là trong các quy trình có sự tham gia của các hiệp hội... Tôi cho rằng, phản biện độc lập về chính sách phải là một quy trình bắt buộc trong suốt quá trình xây dựng, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra và trình ra QH. Khi ĐBQH nhìn vào dự án sẽ thấy ý kiến phản biện của các tổ chức độc lập như Mặt trận và các hiệp hội để biết có tính độc lập thế này thì quy định đưa ra có tính khả thi cao hơn hay không

Hai là, thông tư liên tịch của liên ngành tư pháp. Trong báo cáo giải trình có nói là theo Hiến pháp những vấn đề đụng đến quyền và nghĩa vụ của công dân phải quy định bằng luật. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta đang soạn thảo các bộ luật như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, nhất là Bộ luật Hình sự, mặc dù chúng ta cố gắng hết sức nhưng từ vài chục năm nay có nhiều quy định bắt buộc phải có hướng dẫn mới làm được. Hiện nay mặc dù có cố gắng nhưng vẫn phải có thông tư hướng dẫn. Báo cáo giải trình cũng nêu: trong trường hợp cần thiết, UBTVQH tiếp tục ban hành quy định chi tiết về các luật, bộ luật. Tôi cho rằng, điều này chưa hợp lý vì theo Điều 74 Hiến pháp về thẩm quyền của UBTVQH thì không có thẩm quyền quy định chi tiết về ban hành luật. Ví dụ khoản 2, Điều 74 của Hiến pháp quy định thẩm quyền của UBTVQH là ra pháp lệnh, giải thích. Quy định chi tiết như vậy nếu không cho ban hành thông tư sẽ vướng mắc trong thực tế của các cơ quan tư pháp, nhất là các cơ quan trực tiếp làm tố tụng.

Ba là, quy trình xây dựng, ban hành thông tư của bộ trưởng và trưởng ngành, ở Mục 4 Chương V. Tôi cho rằng, khoảng 2 năm nay, có nhiều thông tư do các bộ, ngành ban hành gây phản ứng rất dữ dội. Một trong những nguyên nhân, theo tôi là do tính khách quan của quy trình thẩm định. Theo quy định hiện hành thì thông tư được bộ, ngành xây dựng sẽ giao cho một bộ phận của bộ, ngành đó thực hiện, sau đó lại giao cho chính bộ phận pháp chế của bộ, ngành ấy thẩm định. Quy trình này khó bảo đảm tính độc lập của thẩm định. Tôi đề nghị, phải xây dựng một bộ phận phản biện độc lập đối với thông tư của các bộ, ngành. Tôi cũng đã có đề xuất với QH là nên giao cho Bộ Tư pháp là cơ quan thẩm định các thông tư của các bộ, ngành tự xây dựng để tránh tình trạng vừa đá bóng, vừa thổi còi, bảo vệ cho lợi ích cục bộ của một ngành dẫn đến các quy định không khả thi và bị dư luận phản ứng.
 
Phó trưởng Đoàn ĐBQH thành phố Hồ Chí Minh Trần Du Lịch: Cơ sở gì để nói rằng, nghị quyết của Tòa án nhân dân tối cao thấp hơn quyết định của Thủ tướng?

Theo nhận thức của tôi, Luật Ban hành văn bản pháp luật là luật để làm luật. Luật cụ thể chệch một, hai điều thì có thể sửa được, nhưng luật để làm luật mà cách tiếp cận không đúng thì sẽ đưa tới lỗi hệ thống. Do vậy, vấn đề tôi bàn đầu tiên là cách tiếp cận đối với luật này như thế nào. Tại sao luật để làm luật mà trong 5 nhiệm kỳ QH, từ nhiệm kỳ Khóa IX tới nay thì đã có đến 4 lần chúng ta ban hành, sửa đổi, bổ sung Luật này? Theo tôi là do cách tiếp cận vấn đề chứ không phải là do khó.

Cách tiếp cận của chúng ta bàn đi, bàn lại rồi lại quay lại như cũ. Văn bản pháp luật gồm có quy phạm pháp luật, hành chính, thủ tục tư pháp. Cho tới nay, thế giới vẫn tiếp cận văn bản pháp luật với 3 giác độ: lập pháp (rất rõ là thẩm quyền của QH) với 3 hình thức là Hiến pháp, luật và nghị quyết; ủy quyền lập pháp (là UBTVQH) với 2 hình thức là nghị quyết và pháp lệnh; tất cả còn lại là văn bản lập quy. Hai cái trên tương đối rõ. Cái thứ ba tùy thuộc một vấn đề quan trọng là thẩm quyền lập quy của cơ quan nào dưới QH. Và đây cũng là nội dung chúng ta cần làm. Sửa đổi Luật lần này khá hơn so với các luật trước nhưng phát sinh mâu thuẫn.

 Tôi đề nghị Luật này phải làm rõ về nguyên tắc. Nguyên tắc thứ nhất là thứ bậc, văn bản nào có giá trị cao hơn, quy định như tại khoản 2, Điều 12 là mâu thuẫn. Nguyên tắc thứ hai là thời gian. Cùng một văn bản giống nhau nhưng văn bản ra sau phủ nhận văn bản ra trước có thừa nhận không? Nguyên tắc thứ ba là nguyên tắc bắt hồi tố, trường hợp nào hồi tố cá biệt, còn nguyên tắc chung là phải quy định. Nguyên tắc cuối cùng là, hiện nay, trong xây dựng pháp luật chúng ta có một nguyên tắc là bộ luật ưu tiên hơn là luật chuyên ngành. Bây giờ, chúng ta phá hết tất cả các bộ luật, 5 bộ luật hiện nay là phá hết, luật chuyên ngành lên trên, không còn gốc. Một hệ thống mất gốc thì rối loạn và hậu quả là luật ra chưa có hiệu lực, chưa thi hành đã vô hiệu lực, thi hành không được, không phù hợp và rối loạn. Đây là vấn đề rất quan trọng. 4 nguyên tắc này trong dự thảo Luật rất mù mờ, không rõ dẫn tới mâu thuẫn. Hiến pháp quy định nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước của ta là không phân quyền mà là phân công và đứng đầu lập pháp là QH, đứng đầu hành pháp là Chính phủ, đừng đầu tư pháp là Tòa án. Cơ sở gì để nói rằng, nghị quyết của Tòa án nhân dân tối cao thấp hơn quyết định của Thủ tướng? Hai văn bản này ngang nhau, một bên là văn bản của hệ thống tư pháp, một bên là văn bản của hệ thống hành pháp. Chúng ta so sánh thế này chẳng khác gì lấy chim sơn ca so sánh với chim bồ câu, con nào lớn, con nào nhỏ là không phải. Sơn ca là sơn ca, bồ câu là bồ câu, không so sánh trật tự được. So sánh như vậy là rối loạn. Hay văn bản của Kiểm toán nhà nước thì dưới thông tư của Bộ, trong khi Kiểm toán nhà nước là cơ quan do QH thành lập. Hay HĐND cấp huyện, chúng ta có cơ sở gì để nói rằng, HĐND huyện không có văn bản pháp luật? Trong khi đó, chúng ta đang củng cố cơ sở thì phải có quyền tự quản của chính quyền cơ sở. Nghị quyết của họ không phải luật lệ gì, như ông bà ta nói đó là lệ làng, có giá trị để tự quản. Luật pháp không cấm, tự nhiên ta triệt tiêu toàn bộ năng lực của cơ sở đi?

Tôi nói một số vấn đề như vậy để thấy rằng, cách tiếp cận như dự thảo Luật là không giải quyết được vấn đề mà sẽ tiếp tục làm rối và chúng ta sẽ còn phải sửa đổi hệ thống pháp luật. Chúng ta phải giải quyết vấn đề gốc là: luật ban hành rồi thì Chính phủ chỉ được quyền cụ thể hóa vấn đề gì; nếu luật không rõ thì UBTVQH có thẩm quyền giải thích luật chứ không phải Tòa án nhân dân tối cao giải thích luật, Hiến pháp đã quy định rồi; thông tư chỉ được cụ thể vấn đề gì mà nghị định yêu cầu, thông tư của bộ mà cụ thể hóa cả Hiến pháp, luật là không được. 
 
Phó chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Hồ Trọng Ngũ: Không thể tùy tiện cho hay không cho cơ quan nào, cấp nào được hay không được ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Khi dự thảo Luật này được trình QH cho ý kiến lần đầu, tôi đã nêu quan điểm của mình về việc tổng kết, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tôi thấy, việc tổng kết chưa thật sâu sắc, chưa thật đầy đủ nên có những ý tưởng và nội dung đưa ra trong dự thảo Luật còn nhiều ý kiến khác nhau cả về quan điểm lập pháp và kỹ thuật lập pháp.

Nội dung của dự thảo Luật này thể hiện ý chí đối với những quan hệ xã hội thì ít, cái chính là công nghệ để làm luật. Vì vậy, phải trở lại những khái niệm rất căn bản là quy phạm pháp luật, văn bản pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống pháp luật. Những khái niệm này phải hết sức chuẩn xác và phải tuân thủ trong luật này.

Tôi đồng ý với nhiều ý kiến của các ĐBQH là luật này phải tuân thủ một nguyên lý rất quan trọng là pháp luật điều chỉnh có giới hạn. Không phải Nhà nước muốn điều chỉnh gì cũng được. Các quan hệ xã hội tồn tại rất đa dạng. Chúng ta phải chấp nhận sự điều chỉnh của các loại quy phạm xã hội, quy phạm văn hóa, thẩm mỹ, đạo đức... và những quan hệ xã hội nào quan trọng mới chọn để điều chỉnh bằng pháp luật. Vì vậy pháp luật phải có tính hệ thống rất chặt chẽ. Vị trí của một quy phạm trong toàn bộ hệ thống pháp luật được quy định bởi hiệu lực pháp lý của nó và việc nó được văn bản nào điều chỉnh. Hệ thống của chúng ta, cao nhất là Hiến pháp, tiếp đến là các luật và văn bản dưới luật. Các quy phạm pháp luật cũng nằm theo hệ thống như vậy. Hệ thống pháp luật được quy định bởi hệ thống quyền lực nhà nước. Chúng ta không thể tùy tiện cho hay không cho cơ quan này, cấp này được ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật phản ánh ý chí của nhân dân, thể hiện ý chí của Nhà nước. Vì vậy, chỗ nào có quyền lực nhà nước và cần phải quản lý nhà nước ở một cấp độ nào đấy, điều chỉnh một hệ thống quan hệ xã hội nhất định nào đấy thì phải được ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Không nên đặt vấn đề nên cho xã, cho huyện hay cho tỉnh ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đặt vấn đề như vậy là không hệ thống, không căn bản. Vấn đề cũng không phải nhiều văn bản. Tôi thấy một số đại biểu nói là do có nhiều văn bản quá nên bỏ -  tôi nghĩ không đúng. Nhiều hay ít không quan trọng mà vấn đề quan trọng là phải có tính hệ thống và tuân thủ Hiến pháp. Các văn bản dưới phải dựa trên cơ sở pháp lý của văn bản có hiệu lực cao hơn trực tiếp để ban hành. Và một điều quan trọng nữa là, kỷ luật ban hành văn bản. Phải tuân thủ Hiến pháp, tính thứ bậc rõ ràng và có sự giám sát để văn bản ra kịp thời, kỷ luật văn bản phải nghiêm.

Trên cơ sở đó, tôi nghĩ việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND các cấp là cần thiết, khách quan. Không thể nói không cho xã ban hành quy phạm pháp luật vì chính quyền cấp xã là chủ thể quản lý cả một guồng máy xã hội, cả một hệ thống để tiến hành công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh trên một địa bàn rộng, phải điều chỉnh hành vi của hàng nghìn, hàng vạn người dân. Nói cấp xã không được ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì làm sao triển khai thực hiện được công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh trên địa bàn xã được?

Vấn đề thông tư, như tôi đã nói, tính thứ bậc của các văn bản được hệ thống và có giá trị nhất định nên không nên đặt vấn đề bỏ bớt loại văn bản này hay văn bản kia. Thông tư có giá trị của thông tư. Điều quan trọng là thông tư phải tuân thủ Hiến pháp, tuân thủ luật và không làm phương hại đến quan hệ xã hội và lợi ích của người dân.

Luật trong cuộc sống

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị giải trình làm rõ những vấn đề Đoàn giám sát nêu
Luật trong cuộc sống

Tiếp tục sửa đổi các luật liên quan để gỡ khó cho thị trường bất động sản

Sau khi làm việc với 12 tỉnh, thành phố, 8 bộ, ngành, Đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm 2023” đã có cuộc làm việc với Chính phủ vào chiều 13.9.

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị
Luật trong cuộc sống

Cần cơ chế phù hợp, xử lý dứt điểm các dự án đang đình trệ

Cơ chế giải quyết phù hợp, xử lý dứt điểm đối với các dự án bất động sản gặp khó khăn, vướng mắc pháp lý, đình trệ do triển khai thực hiện, nhiều dự án kéo dài, pháp luật qua các thời kỳ có nhiều thay đổi. Đây là vấn đề được các thành viên Đoàn giám sát của Quốc hội, đại diện các bộ, ngành tập trung phân tích tại cuộc làm việc với Chính phủ về quản lý thị trường bất động sản, phát triển nhà ở xã hội.

Tài liệu của HĐND, UBND cấp xã phải nộp vào lưu trữ lịch sử
Luật trong cuộc sống

Tài liệu của HĐND, UBND cấp xã phải nộp vào lưu trữ lịch sử

Tại họp báo công bố Lệnh của Chủ tịch Nước về các luật được thông qua tại Kỳ họp thứ Bảy, Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước Đặng Thanh Tùng nêu rõ, tài liệu của HĐND, UBND cấp xã phải nộp vào lưu trữ lịch sử. Quy định này xuất phát từ thực tế khối lượng hồ sơ, tài liệu được lưu trữ tại cấp xã rất lớn, trong khi đó, nguồn lực về con người, cơ sở vật chất dành cho công tác này rất hạn chế, dẫn đến việc lưu trữ tại nhiều địa phương không bảo đảm.

Tác động tích cực đến thị trường bất động sản
Luật trong cuộc sống

Tác động tích cực đến thị trường bất động sản

TheoLuật sư HOÀNG TUẤN VŨ, Công ty Luật TNHH Tuệ Anh, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội, Luật Đất đai năm 2024 có nhiều quy định thiết thực, hợp lý, chắc chắn khi có hiệu lực thi hành sẽ tác động đáng kể đến thị trường bất động sản, đáp ứng mong đợi của chính quyền, doanh nghiệp và người dân.

Quy định chuyển tiếp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất
Luật trong cuộc sống

Quy định chuyển tiếp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất

Luật Đất đai (sửa đổi) được Quốc hội Khóa XV thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ Năm được xem là bước tiến lớn trong việc hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý và sử dụng đất đồng bộ; đồng thời, khắc phục tình trạng lãng phí, hoang hóa, ô nhiễm, suy thoái và những tồn tại, vướng mắc về quản lý và sử dụng đất do lịch sử để lại. Đặc biệt, khi Luật có hiệu lực, những quy định chuyển tiếp vẫn bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho người sử dụng đất theo hướng có lợi nhất.

Bảo đảm quyền lợi hơn cho người dân có đất bị thu hồi
Luật trong cuộc sống

Bảo đảm quyền lợi hơn cho người dân có đất bị thu hồi

Luật Đất đai (sửa đổi) được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ Năm, Quốc hội Khóa XV được xem là đạo luật quan trọng, bởi với nhiều điểm mới, Luật sẽ tác động và ảnh hưởng đến hầu hết mọi mặt của đời sống xã hội, nhất là việc bảo đảm quyền lợi hơn cho người dân có đất bị thu hồi. Theo đó, kỳ vọng khi Luật chính thức có hiệu lực và đi vào cuộc sống, cả người dân, doanh nghiệp, các tổ chức khác và Nhà nước đều được hưởng lợi.

Giảm tỷ lệ cổ phần của cổ đông lớn có giảm tỷ lệ sở hữu chéo ngân hàng không?
Luật trong cuộc sống

Giảm tỷ lệ cổ phần của cổ đông lớn có giảm tỷ lệ sở hữu chéo ngân hàng không?

Để ngăn chặn tình trạng sở hữu chéo, gây nhiều hệ lụy cho hệ thống ngân hàng, dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) cần tiếp tục hoàn thiện nhiều nội dung. Trong đó, có các quy định về những cá nhân, tổ chức là cổ đông của ngân hàng; công bố thông tin; quản trị ngân hàng; cơ chế thanh tra, giám sát…

Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về từ thiện nhân đạo
Luật trong cuộc sống

Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về từ thiện nhân đạo

Cuối năm 2021, trước một số vấn đề phát sinh, Chính phủ đã ban hành Nghị định 93/2021 có nhiều bổ sung, sửa đổi so với Nghị định 64/2008, góp phần quản lý chặt chẽ hơn hoạt động từ thiện nhân đạo của các cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân. Nhưng, với sự thay đổi của hoạt động từ thiện ở nước ta hiện nay và xu hướng trên thế giới, tại Hội thảo vừa được Viện Nghiên cứu lập pháp tổ chức, các chuyên gia cho rằng, phải có cơ sở pháp lý đầy đủ để thực hiện hoạt động từ thiện nhân đạo.

Bài cuối: Pháp quyền, dân chủ và đạo đức - ba nhân tố căn bản trên lộ trình đổi mới thể chế
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài cuối: Pháp quyền, dân chủ và đạo đức - ba nhân tố căn bản trên lộ trình đổi mới thể chế

TS. NHỊ LÊ - Nguyên Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản

Trọng sự thứ năm, đó là nắm chắc và phát triển đạo đức làm nền móng nhằm nâng cao văn hóa chính trị phát triển trong văn hóa dân tộc thực thi đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền dân chủ, văn minh và tiến bộ.

Hoàn thiện cơ chế giám sát thực thi các cam kết quốc tế
Quốc hội và Cử tri

Hoàn thiện cơ chế giám sát thực thi các cam kết quốc tế

Quốc hội không chỉ có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý cho việc tổ chức thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên mà cần hướng tới hoàn thiện cơ chế giám sát thực thi các cam kết này một các hiệu quả, coi việc giám sát là động lực để cải cách và đổi mới. Đây là nội dung được nhiều đại biểu thảo luận tại Hội thảo “Thực hiện và giám sát thực hiện chính sách, pháp luật theo các cam kết quốc tế về môi trường và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong hiệp định CPTPP và EVFTA” do Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức mới đây.

Tọa đàm “Tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả công tác dân nguyện”
Luật trong cuộc sống

Tọa đàm “Tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả công tác dân nguyện”

Là cầu nối trực tiếp giữa Nhân dân với Quốc hội, hoạt động dân nguyện có vai trò đặc biệt quan trọng, góp phần vào việc phản ánh đầy đủ, kịp thời tâm tư, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội. Từ đó, không ngừng phát huy quyền làm chủ mọi mặt của Nhân dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Chưa lường hết sự phức tạp trong lập quy hoạch tích hợp
Luật trong cuộc sống

Chưa lường hết sự phức tạp trong lập quy hoạch tích hợp

Từng “nếm trải” những đắng cay của sự chồng chéo, xung đột giữa các quy hoạch ngành, quy hoạch sản phẩm cũ từ thực tiễn công tác tại địa phương nên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN - PTNT) Lê Minh Hoan cho biết, ông đặt nhiều kỳ vọng vào các quy hoạch tích hợp được xây dựng theo tinh thần của Luật Quy hoạch. Tuy vậy, công tác lập quy hoạch thời gian qua có nhiều lúng túng, chậm trễ mà "nguồn cơn", theo ông là bởi hiện chưa có sự tiếp cận đồng bộ về triết lý, phương pháp luận trong lập quy hoạch tích hợp.
Phát huy giá trị của kết quả nghiên cứu khoa học
Luật trong cuộc sống

Phát huy giá trị của kết quả nghiên cứu khoa học

Cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ tại Phiên họp thứ Tám vừa qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, dự thảo Luật đã xác định cơ chế phân chia hợp lý lợi ích giữa Nhà nước, tác giả và tổ chức chủ trì đối với các kết quả nghiên cứu từ nhiệm vụ khoa học, công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước. Các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đề nghị, cần tiếp tục nghiên cứu mở rộng quyền chuyển giao công nghệ đối với những kết quả nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước, nhằm phát huy giá trị của kết quả nghiên cứu khoa học.