Hợp tác với doanh nghiệp chủ yếu trong lĩnh vực công nghệ thông tin
Chia sẻ tại Diễn đàn thúc đẩy hợp tác nghiên cứu và đào tạo giữa doanh nghiệp FDI với các cơ sở giáo dục đại học sáng 22.5, PGS.TS. Lưu Bích Ngọc Văn phòng Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực (Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho biết, hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp đã trở thành xu hướng phổ biến trên thế giới.
Tại Việt Nam, hợp tác giữa các cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp được Đảng và Nhà nước quan tâm từ hai thập niên trở lại đây.
Theo kết quả khảo sát của Bộ GD-ĐT vào tháng 6.2021, trong số 135 cơ sở giáo dục đại học có báo cáo gửi về (chiếm khoảng 50% số các cơ sở giáo dục đại học hiện có) thì 40,7% cơ sở đào tạo có hoạt động hợp tác với doanh nghiệp cả trong lĩnh vực công nghệ thông tin và các lĩnh vực khác, 44,4% chỉ có hợp tác trong các lĩnh vực khác, 8,1% chỉ có hợp tác trong lĩnh vực công nghệ thông tin, và chỉ 6,7% không có hoạt động hợp tác nào với doanh nghiệp, tập trung chủ yếu vào các cơ sở đào tạo các khối ngành đặc thù thuộc lĩnh vực nghệ thuật.
Kết quả khảo sát cho thấy 66/135 (48%) cơ sở giáo dục đại học có hợp tác với doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin trong cả đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Tổng số các doanh nghiệp có hợp tác với các trường đại học là 674 doanh nghiệp, tuy nhiên con số này không trải đều trên các cơ sở đào tạo. Nhóm các trường đại học có hợp tác với nhiều doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin nhất (trên 20 doanh nghiệp) gồm: Trường Đại học Bách khoa (Đại học Đà Nẵng), Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội), Trường Đại học Kinh tế (Đại học Đà Nẵng).
Như vậy, tổng số doanh nghiệp có hợp tác với 135 cơ sở giáo dục đại học được khảo sát là 6.126 doanh nghiệp, đạt tỷ lệ trung bình là 60 doanh nghiệp/cơ sở đào tạo.
Tuy nhiên, từ một góc độ khác nhìn lại, hợp tác giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp ở nước ta vẫn còn rất hạn chế.
Tổng hợp kết quả điều tra xã hội học của các tổ chức trong và ngoài nước về thực trạng hợp tác giáo dục đại học và doanh nghiệp ở nước ta thời gian qua cho thấy, chỉ có 4% doanh nghiệp hợp tác với các trường đại học trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; 29% doanh nghiệp tham gia hội thảo, tọa đàm, giảng dạy ở các trường đại học.
Hầu hết quan hệ giáo dục đại học và doanh nghiệp đều xuất phát từ nhu cầu trước mắt, kế hoạch ngắn hạn của doanh nghiệp chứ không phải là từ chiến lược dài hạn. Mức độ hợp tác chủ yếu là ở "sự hiểu biết phát triển ban đầu", hoặc "hợp tác ngắn hạn". Chỉ có 58 và 47 trường đại học đang lần lượt được coi là "đối tác lâu dài" và "đối tác chiến lược" của các doanh nghiệp.
Rào cản về cơ chế chính sách khiến doanh nghiệp chưa mặn mà
Dẫn chứng từ Khảo sát của Vụ Giáo dục đại học (Bộ GD-ĐT), PGS.TS Lưu Bích Ngọc cho biết, Bộ GD-ĐT nhận được rất nhiều ý kiến của các cơ sở giáo dục đào tạo về những khó khăn, vướng mắc trong quá trình hợp tác với doanh nghiệp, trong đó có khó khăn đến từ cơ chế chính sách.
Ví dụ, còn có sự chồng lấn giữa các Luật như Luật Doanh nghiệp, Luật Tài sản công… trong khi chưa có những Nghị định quy định rõ ràng cách áp dụng những luật này cho các cơ sở giáo dục đại học khi thực hiện tự chủ trong ký kết hợp tác.
Nghị định về hoạt động khoa học công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học chưa được ban hành, chưa tạo động lực cho các trường đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.
PGS.TS Lưu Bích Ngọc cũng chỉ ra rằng, đối với hình thức hợp tác trong đào tạo, việc mời giảng viên thỉnh giảng đến từ doanh nghiệp vấp phải qui định về bằng cấp, trình độ đối với giảng viên đại học (giảng viên thỉnh giảng phải có bằng thạc sĩ khi dạy cho trình độ đại học, phải có bằng tiến sĩ khi dạy cho trình độ cao học) trong khi những người có kinh nghiệm thực tiễn tại các doanh nghiệp có thể chia sẻ với sinh viên lại không có trình độ bằng cấp như vậy.
Kinh phí nếu dùng ngân sách theo quy định của Nhà nước cho 1 giờ giảng thường thấp. Các cơ sở giáo dục đại học thường phải sử dụng các nguồn kinh phí khác thay thế để có thể mời được người tới từ doanh nghiệp trong khi chi phí để mời được những đại diện doanh nghiệp lớn không phải là nhỏ.
Bà Ngọc cũng cho rằng, hiện vẫn chưa có hành lang pháp lý, cơ chế chính sách khuyến khích doanh nghiệp và cơ sở đại học hợp tác theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi.
“Thực tế ở Việt Nam, thị trường lao động chưa phát triển, việc làm mà doanh nghiệp tạo ra thường nhỏ hơn so với nhu cầu và lượng nhân lực được đào tạo. Vì vậy các doanh nghiệp không khó khăn khi tuyển dụng dẫn đến doanh nghiệp không thấy được việc thúc đẩy hợp tác với nhà trường là cần thiết.
Nhiều cơ sở đào tạo chưa thiết lập được bộ phận chuyên trách về xúc tiến liên kết hợp tác với doanh nghiệp, đa số các cán bộ làm kiêm nhiệm, không được tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng và kinh nghiệm đàm phán, hợp tác.
Trình độ sinh viên (ngoại ngữ, kỹ năng) của nhiều trường chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp dẫn đến doanh nghiệp không thể cho phép sinh viên tham gia làm việc/thực tập tại doanh nghiệp”, PGS.TS Lưu Bích Ngọc chỉ rõ.
Bên cạnh đó, theo PGS.TS Lưu Bích Ngọc, nhiều trường chưa tổ chức được các nhóm nghiên cứu mạnh, các nhà khoa học và sinh viên chưa tiếp cận được với doanh nghiệp để có thể lắng nghe nhu cầu của doanh nghiệp trong nghiên cứu khoa học và nghiên cứu sản phẩm mới hoặc để có được những nghiên cứu đúng với nhu cầu của doanh nghiệp.
Các khoa trong trường còn lúng túng, bị động trong việc thúc đẩy hợp tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ do năng lực còn hạn chế. Mối quan hệ một chiều khá lớn: doanh nghiệp tìm đến nhà trường chứ nhà trường chưa có điều kiện để tiếp cận doanh nghiệp.
Về xây dựng chương trình đào tạo, mặc dù nhà trường có mời các doanh nghiệp tham gia, góp ý chỉnh sửa, hoàn thiện nội dung chương trình đào tạo qua các năm học, thậm chí có văn bản ký kết nhưng thực tế hoạt động này chưa thu hút được sự tâm huyết, quan tâm, sát sao của doanh nghiệp.
Các kết quả nghiên cứu mới chỉ được áp dụng chủ yếu tại các doanh nghiệp mà đề tài của nhà trường đăng ký thực nghiệm, chưa triển khai đến các doanh nghiệp khác đã ký kết hợp tác nghiên cứu và chuyển giao công nghệ do các trường thường chưa có bộ phận xúc tiến thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học. Một số doanh nghiệp vì giữ bí quyết công nghệ, nên từ chối không cho các trường dẫn sinh viên tới tham quan, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm khiến kết quả của quá trình đào tạo và yêu cầu của doanh nghiệp luôn có khoảng cách.
Ngoài ra, việc bảo đảm các điều kiện cần thiết để duy trì, phát triển các mối quan hệ lâu dài với đối tác còn thiếu và yếu. Nguồn kinh phí cho hoạt động hợp tác phát triển nói chung và kinh phí đối ứng cho các hoạt động nghiên cứu, trao đổi còn rất eo hẹp và hạn chế.
"Việc hợp tác với doanh nghiệp trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học đang được quan tâm thúc đẩy để tương xứng với tiềm năng của các cơ sở giáo dục. Tuy nhiên, các đơn đặt hàng của doanh nghiệp còn hạn chế, phần lớn là chuyển giao công nghệ đã hình thành và kết quả nghiên cứu của các đề tài. Nhiều doanh nghiệp vẫn còn phân biệt trường công và trường tư, thường ưu tiên trao học bổng và các hình thức tài trợ cho trường công nhiều hơn trường tư", PGS.TS Lưu Bích Ngọc nói.
Nâng cao năng lực quản trị của cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp
Dựa vào kinh nghiệm quốc tế cũng như phân tích bối cảnh, thực trạng ở Việt Nam, PGS.TS Lưu Bích Ngọc cho rằng, để hỗ trợ thúc đẩy hợp tác giữa đại học và doanh nghiệp cần giải pháp chính sách cải thiện môi trường thông tin như xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý, phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động, xây dựng và hoàn thiện hệ thống truy vết sinh viên tốt nghiệp; tạo cơ chế gắn kết giữa các hệ thống thông tin trên dưới sự quản lý và điều phối của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Bên cạnh đó cũng cần hoàn thiện và tích cực tổ chức, triển khai thực hiện khung trình độ quốc gia; mở rộng các dự án tài trợ hiện có, thu hút các chương trình tài trợ đổi mới sáng tạo, khuyến khích các dự án nghiên cứu trên cơ sở hợp tác giữa các trường đại học và doanh nghiệp; thực hiện lập quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học giai đoạn mới với tầm nhìn chiến lược tới năm 2050.
Đặc biệt cũng cần xây dựng và ban hành các tài liệu hướng dẫn nâng cao năng lực quản trị của cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp; nâng cao năng lực của cả cơ sở giáo dục đại học và doanh ngiệp trong việc triển khai quan hệ đối tác công tư (PPP).
Hoàn thiện các quy định về tổ chức và hoạt động của đại học tự chủ sáng nghiệp; mở rộng quyền tự chủ đại học về chuyên môn, tổ chức, nhân sự, tài chính, hợp tác trong nước và quốc tế đối với các cơ sở giáo dục đại học sáng nghiệp; ban hành các chính sách hỗ trợ tài chính và phi tài chính trong việc triển khai xây dựng các vườn ươm doanh nghiệp thông qua nhiều dự án khác nhau, bao gồm dự án đấu thầu, dự án ODA, dự án PPP...