Pháp luật về viên chức và những đổi mới về phương thức, cơ chế quản lý viên chức

Hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và việc tham gia ngày càng rộng rãi của các tổ chức xã hội vào các hoạt động của đời sống xã hội, thì các dịch vụ công do Nhà nước cung cấp vẫn luôn giữ được vai trò thiết yếu và quan trọng. Pháp luật Việt Nam đã gọi những người trực tiếp thực hiện các hoạt động sự nghiệp công theo các cách khác nhau, có thời kỳ được gọi là cán bộ, công chức, công chức sự nghiệp hay viên chức. Dù gọi là cán bộ, công chức hay viên chức thì đều là những khái niệm được sử dụng một cách ước lệ và có tính lịch sử.

Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng của yếu tố con người trong việc bảo đảm hiệu quả hoạt động của mọi tổ chức, Nhà nước ta đã quan tâm xây dựng các quy định pháp luật nhằm điều chỉnh một cách toàn diện về đội ngũ viên chức. Pháp luật về viên chức là cơ sở hoàn thiện bộ máy nhân sự – yếu tố cốt lõi trong tổ chức của đơn vị sự nghiệp công lập và cũng là yếu tố cốt lõi trong việc nâng cao hiệu quả việc cung cấp các dịch vụ công và thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước.

Từ Pháp lệnh Cán bộ, công chức đến Luật Cán bộ, công chức

Có một mốc cần quan tâm: năm 1998, sau nhiều năm chuẩn bị, Pháp lệnh Cán bộ, công chức được ban hành, đánh dấu bước chuyển biến lớn trong quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta. Trên cơ sở Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 95/1998/NĐ-CP ngày 17.11.1998 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Trong các văn bản này, khái niệm công chức được dùng để chỉ cả nhóm đối tượng làm việc trong các cơ quan nhà nước và đối tượng làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 và văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này mặc dù đã có sự thay đổi rõ rệt so với những quy định trong các nghị định trước đó, song vẫn chưa có sự phân định rõ ràng giữa công chức và viên chức; không có những quy định phù hợp với đặc thù của từng loại đối tượng. Do trong một văn bản có quá nhiều đối tượng với tính chất và hoạt động khác nhau cùng được điều chỉnh nên bản thân quy định pháp luật đã tạo nên những mâu thuẫn nội tại, từ đó gây nên bất hợp lý trong quá trình thực hiện. Năm 2000, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cán bộ, công chức được ban hành. Tuy nhiên, chỉ sửa đổi được một số nội dung liên quan đến những việc cán bộ, công chức không được làm.

Đến năm 2003, thực hiện chủ trương của Đảng về tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, thực hiện xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp, đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước, Pháp lệnh Cán bộ, công chức được sửa đổi một cách căn bản hơn. Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 2003, mặc dù vẫn sử dụng một danh từ chung là cán bộ, công chức để chỉ những người làm việc trong khu vực công, nhưng đã có sự phân biệt giữa cán bộ, công chức trong cơ quan Nhà nước và cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội. Việc phân biệt cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước với cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập, thực chất là phân biệt giữa công chức với viên chức, là một điểm mốc quan trọng đánh dấu xu hướng điều chỉnh có tính chuyên biệt giữa đối tượng làm việc trong các cơ quan nhà nước với các đối tượng làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng cải cách hành chính là cần phải phân biệt giữa hoạt động quản lý hành chính với hoạt động sự nghiệp, phân biệt giữa hoạt động công vụ của công chức với hoạt động có tính chất chuyên môn, nghề nghiệp của viên chức.

Ngày 13.11.2008, tại Kỳ họp thứ Tư, QH Khóa XII, Luật Cán bộ, công chức đã được QH thông qua và có hiệu lực từ ngày 1.1.2010. Luật Cán bộ, công chức đã thu hẹp đối tượng áp dụng so với Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Theo đó, đội ngũ viên chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, làm việc trong khu vực sự nghiệp công lập chiếm số lượng tương đối lớn (khoảng 1,5 triệu người, chiếm khoảng 72% số cán bộ, công chức hiện nay của cả hệ thống chính trị). Do đặc điểm và tính chất hoạt động của viên chức không trực tiếp thực thi quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị nên không thuộc phạm vi, đối tượng điều chỉnh của Luật Cán bộ, công chức mà được phân biệt, tách khỏi đội ngũ cán bộ, công chức hiện tại để điều chỉnh bằng một chế độ pháp lý khác (xây dựng Luật Viên chức để điều chỉnh). Đây là một bước cải cách mạnh mẽ đối với chế độ công vụ, công chức trong lịch sử hơn 60 năm của nền công vụ nước ta. Việc tách đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập ra khỏi Luật Cán bộ, công chức nhằm tạo điều kiện tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, khuyến khích sự phát triển của các đơn vị sự nghiệp, góp phần đẩy mạnh quá trình xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công, tạo điều kiện để tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý phù hợp với xu hướng nâng cao chất lượng phục vụ của các hoạt động sự nghiệp nay.

Như vậy, trong thời gian từ năm 1998 đến trước khi QH ban hành Luật Cán bộ, công chức, Pháp lệnh Cán bộ, công chức là cơ sở pháp lý quan trọng để hoàn thiện pháp luật về viên chức ở nước ta, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển đất nước. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật giai đoạn này chưa có sự nhận thức rõ ràng về chức năng phục vụ của Nhà nước, chưa tách bạch được hai chức năng cơ bản của Nhà nước là chức năng quản lý xã hội và chức năng cung ứng dịch vụ công cho xã hội. Chưa xác định rõ việc Nhà nước phải cung ứng các loại dịch vụ công nào, trách nhiệm của Nhà nước đến đâu, phương thức cung ứng như thế nào nên chưa có cơ chế phù hợp trong tổ chức, quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập cũng như quản lý, sử dụng viên chức làm việc trong các đơn vị này. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế về chất lượng đội ngũ viên chức ở nước ta như: lực lượng các chuyên gia đầu ngành về khoa học tự nhiên và xã hội, vừa hẫng hụt vừa thiếu đồng bộ...

Nhìn chung, pháp luật về viên chức ở nước ta hiện nay cũng còn nhiều điểm hạn chế. Cụ thể là: thứ nhất, pháp luật còn phân tán và thiếu một định hướng dài hạn cho việc phát triển đội ngũ viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Thứ hai, các quy định pháp luật chưa phân biệt và làm rõ những đặc thù của đội ngũ viên chức so với đội ngũ những người làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước. Do đó chưa tạo ra cơ chế quản lý, sử dụng thực sự phù hợp, hiệu quả. Thứ ba, các quy định pháp luật về quản lý, sử dụng viên chức chưa được thể hiện trong các văn bản pháp luật riêng, có giá trị pháp lý cao, có tính khái quát, điều chỉnh ở tầm vĩ mô, có tính chất định hướng, ổn định, lâu dài và bảo đảm thực hiện cao mà chủ yếu được ban hành dưới dạng nghị định, thông tư. Cho đến thời điểm hiện nay, ngoài một số đạo luật chuyên ngành có điều chỉnh các nội dung liên quan đến hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức ở một số ngành cụ thể (như Luật Giáo dục, Luật Khám bệnh chữa bệnh…), văn bản có giá trị pháp lý cao nhất quy định về việc quản lý, sử dụng viên chức là Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Tuy nhiên văn bản này cũng chỉ quy định những vấn đề, mang tính khái quát về quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức nói chung; còn những nội dung cụ thể về viên chức được điều chỉnh trong các nghị định của Chính phủ hoặc thông tư của các bộ, ngành. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tính minh bạch, thống nhất của pháp luật về viên chức ở nước ta.

Và những yêu cầu đặt ra trong việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về viên chức

Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân cũng như quá trình phát triển và hội nhập đang đặt ra những yêu cầu mới cho công tác quản lý, sử dụng đội ngũ viên chức. Pháp luật về viên chức, theo đó, cũng cần được tiếp tục hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện pháp luật về viên chức, đặc biệt là các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng viên chức là một nội dung quan trọng của cải cách nền hành chính nhà nước  hiện nay.

Yêu cầu đặt ra là: thứ nhất, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về viên chức phải quán triệt và thể chế hóa các quan điểm của Đảng về công tác cán bộ, về đổi mới tổ chức và quản lý đơn vị sự nghiệp công lập; đồng thời phải phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính trong giai đoạn hiện nay.

Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, Đảng chủ trương “tách các hoạt động công quyền với các hoạt động cung ứng dịch vụ công để các tổ chức cung ứng dịch vụ công thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động, về tài chính và nhân sự”,  “đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị công lập cung ứng dịch vụ công cộng theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thực hiện hạch toán thu – chi không vì lợi nhuận; Nhà nước không bao cấp tràn lan”, “từng bước chuyển các cơ sở công lập dịch vụ công cộng đang hoạt động theo cơ chế sự nghiệp mang nặng tính hành chính bao cấp sang cơ chế tự chủ, không bao cấp tràn lan và không vì mục tiêu lợi nhuận”. Chương trình tổng thể cải cách hành chính cũng nêu rõ: tách tổ chức hành chính với tổ chức, sự nghiệp công để hoạt động theo các cơ chế tách riêng, phù hợp, có hiệu quả.

Các quy định của pháp luật về viên chức phải thể chế hóa các quan điểm về tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ mới và các quan điểm về công tác cán bộ trong Nghị quyết hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Yêu cầu thứ hai, pháp luật về viên chức phải xác định đúng đắn vị trí, địa vị pháp lý của viên chức, quyền, nghĩa vụ của viên chức, phân định trách nhiệm giữa công chức và viên chức; giữa viên chức trong khu vực công và những người làm trong khu vực tư… để có cơ chế quản lý, sử dụng viên chức hiệu quả, phù hợp.

Từ trước tới nay, do chưa phận định được rõ ràng ai là công chức, ai là viên chức nên cơ chế quản lý và chế độ, chính sách của Nhà nước ban hành vẫn còn nhiều hạn chế, chưa hoàn toàn phù hợp với từng nhóm đối tượng. Điều này, làm ảnh hưởng đến quá trình xây dựng đội ngũ viên chức. Vì vậy, pháp luật về viên chức cần làm rõ những khác biệt về quyền và nghĩa vụ, những việc không được làm, việc phân chia ngạch, bậc, chế độ tiền lương điều kiện, quy trình tuyển dụng, bổ nhiệm… đối với viên chức. Bên cạnh đó, cũng cần quy định cụ thể các chế độ, chính sách cho viên chức sự nghiệp, trong đó có những ưu đãi đối với viên chức sự nghiệp làm việc trong các ngành, lĩnh vực mà thị trường không có khả năng bù đắp hoặc các địa bàn khó khăn.

Hiện nay, ở nước ta, việc tách các đơn vị dịch vụ công ra khỏi hệ thống các cơ quan công quyền mới ở giai đoạn đầu và còn đòi hỏi nhiều thời gian cho nên pháp luật về viên chức cần phân loại rõ và có quy định phù hợp ngay cả với các nhóm viên chức khác nhau.

Yêu cầu thứ ba là, pháp luật về viên chức phải tạo khung pháp lý đồng bộ để xây dựng, phát triển đội ngũ viên chức có chất lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quá trình phát triển đất nước.

Đến thời điểm hiện tại, tổng số viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập đã lên khoảng 1,5 triệu người. Để quản lý, sử dụng một đội ngũ đông đảo và có vị trí quan trọng như vậy, đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống quy định pháp luật thống nhất, toàn diện. Pháp luật về viên chức phải xác lập đầy đủ, đồng bộ các cơ sở pháp lý vững chắc, có giá trị cao nhằm xây dựng đội ngũ viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, phát triển và hội nhập của đất nước; phát huy tính năng động, sáng tạo của viên chức trong thực hiện các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, góp phần đổi mới hoạt động quản lý nhà nước về viên chức và đơn vị sự nghiệp công lập.

Ngoài ra, khi xây dựng pháp luật về viên chức phải giải quyết được mối quan hệ  giữa các văn bản pháp luật quy định chung về việc quản lý, sử dụng viên chức với các văn bản quy định về cán bộ, công chức, các văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức trong lĩnh vực cụ thể để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.

Việc quản lý, sử dụng đội ngũ viên chức ở nước ta có nhiều vấn đề liên quan đến lịch sử hình thành đội ngũ viên chức và có những vấn đề chúng ta chưa có kinh nghiệm thực tiễn. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về viên chức, mà trước mắt là xây dựng Luật Viên chức. Việc xây dựng Luật Viên chức sẽ có nhiều vấn đề mới, mang tính cơ bản và rất quan trọng, ảnh hưởng lớn đến đổi mới phương thức và cơ chế quản lý viên chức, do đó, đòi hỏi sự quan tâm, nghiên cứu, chuẩn bị chu đáo của các cơ quan, tổ chức có liên quan.

Luật trong cuộc sống

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh
Quốc hội và Cử tri

Quy trình mới có thể rút ngắn thời gian ban hành luật từ 22 tháng xuống còn 10 tháng

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 đã tách bạch quy trình chính sách với việc lập Chương trình lập pháp hàng năm, phân định rõ hơn quy trình xây dựng chính sách và quy trình soạn thảo. Với tinh thần đó, đối với các luật, pháp lệnh cần thực hiện quy trình chính sách sẽ gồm 4 bước cơ bản. Trên cơ sở chính sách được thông qua sẽ tiến hành soạn thảo theo quy trình 7 bước, trong đó đơn giản một số thủ tục hoặc một số loại hồ sơ, tài liệu. Quy trình này có thể rút ngắn thời gian ban hành luật từ 22 tháng xuống còn 10 tháng.

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các nghị định hướng dẫn
Luật trong cuộc sống

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các nghị định hướng dẫn

Theo Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật (Bộ Tư pháp), trong chương trình làm việc Kỳ họp bất thường lần thứ Chín, Quốc hội sẽ xem xét, biểu quyết thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi). Để bảo đảm tính thống nhất và khả thi, Bộ Tư pháp đang gấp rút hoàn thiện ba nghị định hướng dẫn thi hành Luật.

Lòng dân hóa thân vào quyết sách của Quốc hội
Quốc hội và Cử tri

Lòng dân hóa thân vào quyết sách của Quốc hội

ThS.Nguyễn Vân Hậu

Trong nhiều quốc kế dân sinh được quyết nghị tại Kỳ họp thứ Tám, các chính sách về bảo hiểm y tế (BHYT), bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân, quan tâm đến người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn... đã khẳng định bản chất ưu việt của chế độ ta luôn đặt lên hàng đầu mục tiêu bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Các quyết sách được lòng dân của Quốc hội chính là sự hóa thân của lòng dân, của ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của Nhân dân, là thước đo giá trị của nền dân chủ trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Đức Tâm
Luật trong cuộc sống

Nâng quy mô vốn đầu tư công của dự án quan trọng quốc gia từ 30.000 tỷ đồng trở lên

Luật Đầu tư công năm 2024 đã nâng quy mô vốn đầu tư công của dự án quan trọng quốc gia từ 30.000 tỷ đồng trở lên; quy mô của dự án nhóm A, nhóm B và nhóm C với quy mô gấp 2 lần so với các quy định hiện hành. Phân cấp thẩm quyền cho người đứng đầu bộ, cơ quan trung ương quyết định chủ trương đầu tư dự án nhóm A do cơ quan, tổ chức mình quản lý với quy mô vốn dưới 10.000 tỷ đồng.

Ảnh minh họa
Luật trong cuộc sống

Đơn giản hóa thủ tục hành chính ngay từ khâu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Đây là một trong những nội dung nêu trong Công điện số 131/CĐ-TTg về việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm phiền hà, chi phí tuân thủ cho người dân, doanh nghiệp ngay từ khâu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký ban hành ngày 11.12 vừa qua.

Bảo đảm sử dụng đất công bằng, công khai, hiệu quả
Luật trong cuộc sống

Bảo đảm sử dụng đất công bằng, công khai, hiệu quả

Tạo hành lang pháp lý an toàn, đầy đủ, thuận lợi, ổn định, khả thi cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống người dân, nhất là các quy định chuyển tiếp, bảo đảm điều kiện tiếp cận, sử dụng đất và nguồn lực khác công bằng, công khai, hiệu quả. Đây là một trong những nội dung quyết nghị của Quốc hội nêu trong Nghị quyết về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội.

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị giải trình làm rõ những vấn đề Đoàn giám sát nêu
Luật trong cuộc sống

Tiếp tục sửa đổi các luật liên quan để gỡ khó cho thị trường bất động sản

Sau khi làm việc với 12 tỉnh, thành phố, 8 bộ, ngành, Đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm 2023” đã có cuộc làm việc với Chính phủ vào chiều 13.9.

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị
Luật trong cuộc sống

Cần cơ chế phù hợp, xử lý dứt điểm các dự án đang đình trệ

Cơ chế giải quyết phù hợp, xử lý dứt điểm đối với các dự án bất động sản gặp khó khăn, vướng mắc pháp lý, đình trệ do triển khai thực hiện, nhiều dự án kéo dài, pháp luật qua các thời kỳ có nhiều thay đổi. Đây là vấn đề được các thành viên Đoàn giám sát của Quốc hội, đại diện các bộ, ngành tập trung phân tích tại cuộc làm việc với Chính phủ về quản lý thị trường bất động sản, phát triển nhà ở xã hội.

Tài liệu của HĐND, UBND cấp xã phải nộp vào lưu trữ lịch sử
Luật trong cuộc sống

Tài liệu của HĐND, UBND cấp xã phải nộp vào lưu trữ lịch sử

Tại họp báo công bố Lệnh của Chủ tịch Nước về các luật được thông qua tại Kỳ họp thứ Bảy, Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước Đặng Thanh Tùng nêu rõ, tài liệu của HĐND, UBND cấp xã phải nộp vào lưu trữ lịch sử. Quy định này xuất phát từ thực tế khối lượng hồ sơ, tài liệu được lưu trữ tại cấp xã rất lớn, trong khi đó, nguồn lực về con người, cơ sở vật chất dành cho công tác này rất hạn chế, dẫn đến việc lưu trữ tại nhiều địa phương không bảo đảm.

Tác động tích cực đến thị trường bất động sản
Luật trong cuộc sống

Tác động tích cực đến thị trường bất động sản

Theo Luật sư HOÀNG TUẤN VŨ, Công ty Luật TNHH Tuệ Anh, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội, Luật Đất đai năm 2024 có nhiều quy định thiết thực, hợp lý, chắc chắn khi có hiệu lực thi hành sẽ tác động đáng kể đến thị trường bất động sản, đáp ứng mong đợi của chính quyền, doanh nghiệp và người dân.

Quy định chuyển tiếp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất
Luật trong cuộc sống

Quy định chuyển tiếp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất

Luật Đất đai (sửa đổi) được Quốc hội Khóa XV thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ Năm được xem là bước tiến lớn trong việc hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý và sử dụng đất đồng bộ; đồng thời, khắc phục tình trạng lãng phí, hoang hóa, ô nhiễm, suy thoái và những tồn tại, vướng mắc về quản lý và sử dụng đất do lịch sử để lại. Đặc biệt, khi Luật có hiệu lực, những quy định chuyển tiếp vẫn bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho người sử dụng đất theo hướng có lợi nhất.

Bảo đảm quyền lợi hơn cho người dân có đất bị thu hồi
Luật trong cuộc sống

Bảo đảm quyền lợi hơn cho người dân có đất bị thu hồi

Luật Đất đai (sửa đổi) được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ Năm, Quốc hội Khóa XV được xem là đạo luật quan trọng, bởi với nhiều điểm mới, Luật sẽ tác động và ảnh hưởng đến hầu hết mọi mặt của đời sống xã hội, nhất là việc bảo đảm quyền lợi hơn cho người dân có đất bị thu hồi. Theo đó, kỳ vọng khi Luật chính thức có hiệu lực và đi vào cuộc sống, cả người dân, doanh nghiệp, các tổ chức khác và Nhà nước đều được hưởng lợi.

Giảm tỷ lệ cổ phần của cổ đông lớn có giảm tỷ lệ sở hữu chéo ngân hàng không?
Luật trong cuộc sống

Giảm tỷ lệ cổ phần của cổ đông lớn có giảm tỷ lệ sở hữu chéo ngân hàng không?

Để ngăn chặn tình trạng sở hữu chéo, gây nhiều hệ lụy cho hệ thống ngân hàng, dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) cần tiếp tục hoàn thiện nhiều nội dung. Trong đó, có các quy định về những cá nhân, tổ chức là cổ đông của ngân hàng; công bố thông tin; quản trị ngân hàng; cơ chế thanh tra, giám sát…