
Chủ tọa điều hành diễn đàn. Ảnh: Khánh Duy
Tài chính xanh là điểm nghẽn lớn nhất
Tại Diễn đàn “Khơi thông nguồn lực cùng doanh nghiệp chuyển đổi xanh” do Báo Đại biểu Nhân dân phối hợp với các đơn vị tổ chức ngày 22.4, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược, cho biết, gần đây doanh nghiệp đã tích cực chuyển đổi xanh, quan tâm hơn đến bộ tiêu chí môi trường, xã hội và quản trị (ESG). Một số tập đoàn lớn tiên phong trong chuyển đổi xanh như Vingroup, Vinamilk, TH True Milk, Masan...; nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đã và đang triển khai thành công các sáng kiến chuyển đổi xanh. Đến năm 2022, khoảng 80% doanh nghiệp trong nước đã hoặc đang lên kế hoạch thực hiện ESG.

Tuy nhiên, khảo sát hơn 2.700 doanh nghiệp do Ban Nghiên cứu Phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) thực hiện cho thấy, vẫn còn nhiều rào cản. Khoảng 46,8% doanh nghiệp thiếu nhân sự chuyên môn về chuyển đổi xanh, nhiều doanh nghiệp chưa biết bắt đầu từ đâu, thiếu cơ sở dữ liệu, thông tin tham khảo và chuyên gia tư vấn. Đặc biệt, phần lớn doanh nghiệp vẫn sử dụng công nghệ lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu tối ưu hóa năng lượng và kiểm soát phát thải. Hạ tầng phục vụ chuyển đổi xanh còn yếu, chưa đồng bộ, gây trở ngại cho doanh nghiệp.
Một thách thức nữa là hiện chưa có định nghĩa pháp lý chính thức về “doanh nghiệp xanh”, cũng như hệ thống tiêu chí xếp hạng mức độ xanh hóa của doanh nghiệp. Các chính sách hỗ trợ như tín dụng xanh, miễn giảm thuế môi trường, trợ giá công nghệ sạch hay chứng nhận sản phẩm thân thiện môi trường hiện còn manh mún, nhỏ lẻ và khó tiếp cận.
Đáng chú ý, theo TS. Trần Thị Hồng Minh, nút thắt lớn nhất hiện nay chính là vấn đề tài chính. Khoảng 90% doanh nghiệp Việt Nam quy mô nhỏ và vừa, đều gặp khó khăn khi chi phí đầu tư ban đầu cho chuyển đổi xanh rất cao, không chỉ ở thiết bị, công nghệ mà còn ở việc tái cấu trúc quy trình, đào tạo nhân lực và thay đổi hệ thống quản lý. Có tới 65% doanh nghiệp cho biết gặp khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn thực hiện các dự án xanh. Trong khi đó, chu kỳ hoàn vốn cho các dự án xanh kéo dài từ 5 - 10 năm, vượt quá khung vay vốn ngắn hạn thông thường.

Ông Nguyễn Thanh Sơn, Giám đốc Trung tâm Đào tạo, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) cho biết, hệ thống tài chính xanh ở Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện về khung pháp lý và chính sách; hiện chưa có quy định thống nhất về phân loại dự án xanh, tiêu chuẩn cấp tín dụng hay phát hành trái phiếu xanh. Công tác thẩm định, quản lý rủi ro môi trường của ngân hàng còn hạn chế do thiếu chuyên gia. Ngoài ra, chưa có sự phối hợp chính sách đồng bộ như ưu đãi thuế, lãi suất, hạn mức tín dụng cho các dự án xanh.
Bên cạnh đó, độ lệch giữa thời hạn của các dự án xanh và nguồn vốn tín dụng hiện nay là một vấn đề lớn. Trong khi các dự án xanh cần vốn dài hạn, hệ thống ngân hàng chủ yếu huy động vốn ngắn hạn, khó đáp ứng. Thị trường tài chính xanh trong nước cũng chưa phát triển, việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu xanh gần như chưa có; nhận thức của doanh nghiệp, nhà đầu tư về tài chính xanh cũng còn hạn chế.

Các chuyên gia trao đổi tại tọa đàm. Ảnh: Khánh Duy
Đề xuất xây dựng Quỹ bảo lãnh tín dụng xanh quốc gia
Để hỗ trợ tài chính, giúp doanh nghiệp chuyển đổi xanh, ông Nguyễn Minh Khôi, Giám đốc Chương trình, Viện Tony Blair vì sự Thay đổi Toàn cầu cho rằng, kinh nghiệm quốc tế có thể là bài học quý cho Việt Nam.

Chẳng hạn, Indonesia triển khai Quỹ bảo lãnh tín dụng xanh dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nông nghiệp, giúp họ tiếp cận nguồn vốn với điều kiện thuận lợi hơn. Hàn Quốc với chương trình K-Green hỗ trợ đổi mới công nghệ tuần hoàn, năng lượng tái tạo, tạo ra 600.000 việc làm và nâng tỷ trọng năng lượng tái tạo lên 20% tổng tiêu thụ năng lượng quốc gia. Trung Quốc đã áp dụng báo cáo ESG bắt buộc đối với doanh nghiệp niêm yết, góp phần nâng cao trách nhiệm môi trường, xã hội của doanh nghiệp và niềm tin của thị trường; châu Âu ban hành hệ thống taxonomy xanh để hướng dẫn, phân loại các hoạt động đầu tư bền vững...
Từ những kinh nghiệm này, ông Khôi đề xuất Việt Nam cần xây dựng Quỹ bảo lãnh tín dụng xanh quốc gia - một cơ chế tài chính đặc thù giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn mà không bị ràng buộc bởi điều kiện tài sản thế chấp. Cùng với đó, cần rà soát, cập nhật danh mục miễn, giảm thuế nhập khẩu đối với công nghệ xanh; chuẩn hóa hệ thống truy xuất nguồn gốc bằng blockchain, TWIN, EUDR; hỗ trợ startup và các dự án đổi mới sáng tạo xanh.

Các đại biểu dự diễn đàn.
Để tăng cường hơn nữa khả năng tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp, ông Nguyễn Thanh Sơn đề xuất, cần gắn kết chiến lược phát triển xanh và tài chính xanh vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia. Chính phủ sớm ban hành danh mục phân loại xanh, xác định các lĩnh vực ưu tiên, giao tổ chức độc lập thẩm định dự án xanh. Đồng thời, xây dựng cơ chế đánh giá tác động môi trường cụ thể, ban hành các chính sách khuyến khích đầu tư xanh, đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực xe điện, năng lượng tái tạo, công nghệ khai khoáng sạch. Cần tiếp tục hỗ trợ tài chính bằng ưu đãi thuế, phí và lãi suất cho doanh nghiệp đầu tư xanh; sớm thành lập thị trường tín chỉ carbon...

Nhấn mạnh mối quan hệ song hành giữa chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, ông Lê Nguyễn Trường Giang, Viện trưởng Viện Chiến lược Chuyển đổi số cho rằng, doanh nghiệp muốn chuyển đổi xanh hiệu quả không thể thiếu nền tảng dữ liệu. Dữ liệu chính là “đầu vào” và “năng lượng mới” cho toàn bộ tiến trình tạo giá trị xanh. Theo ông Giang, doanh nghiệp cần xây dựng lộ trình chuyển đổi số rõ ràng, bởi chuyển đổi số không chỉ là nhiệm vụ công nghệ, mà là một chiến lược toàn diện, nền tảng cho phát triển xanh và bền vững. Doanh nghiệp cần coi dữ liệu là tài sản chiến lược, đầu tư hạ tầng số, kết nối hệ thống dữ liệu phục vụ giám sát, quản trị phát thải và tối ưu vận hành.

TS. Nguyễn Quốc Việt, chuyên gia kinh tế, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, nhấn mạnh, khu vực FDI đóng vai trò then chốt trong chuyển đổi xanh. Do đó, cần tiếp tục cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia để thu hút dòng vốn đầu tư chất lượng cao, thân thiện môi trường. Theo ông, việc hoàn thiện thể chế, chính sách và môi trường đầu tư theo hướng minh bạch, dễ dự đoán, bảo đảm quyền tài sản và hiệu lực thực thi chính sách là động lực cho chuyển đổi xanh. Đặc biệt, cần tăng cường liên kết giữa khu vực FDI với chính sách nhà nước thông qua các mô hình xanh cụ thể, đưa chính sách vào thực tiễn, gắn với hơi thở và nhu cầu thực sự của doanh nghiệp.