Bầu cử - một phương thức để nhân dân giao quyền, ủy quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước

Bầu cử là một trong số những hình thức để nhân dân kiểm soát được quyền lực nhà nước của mình, và có vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi, bầu cử không chỉ là biện pháp dân chủ để thành lập ra nhà nước mà còn là một phương thức để kiểm soát quyền lực nhà nước.

Ngày 22.5 tới, cử tri cả nước ta đi bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp. Nhân sự kiện dân chủ - chính trị - pháp lý trọng đại này, xin có một vài suy nghĩ bàn về bầu cử.

1. Bầu cử là một trong số những hình thức để nhân dân kiểm soát được quyền lực nhà nước của mình, và có vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi, bầu cử không chỉ là biện pháp dân chủ để thành lập ra nhà nước mà còn là một phương thức để kiểm soát quyền lực nhà nước. Nếu quyền bầu cử của nhân dân được thực hiện một cách dân chủ, thực chất thì bộ máy nhà nước cùng các quan chức của nó được kiện toàn một bước, là cơ hội để loại bỏ những quan chức tham nhũng, độc đoán chuyên quyền, và là phương thức để nhân dân giao quyền, ủy quyền và kiểm soát quyền lực nhờ giới hạn của một nhiệm kỳ xác định (5 năm) do Hiến pháp và luật quy định.

Nhận thức được vai trò to lớn của bầu cử, ngay từ khi mới ra đời Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chỉ sau ngày đọc tuyên ngôn độc lập, ngày 3 tháng 9 năm 1945, Hồ Chủ Tịch đã đề nghị Chính Phủ lâm thời sớm tổ chức một cuộc tổng tuyển cử và xây dựng Hiến pháp. Người nói: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế cai trị, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ phải tổ chức càng sớm càng hay cuộc tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả mọi công dân, trai, gái từ 18 tuổi đều có quyền bầu cử, ứng cử, không phân biệt giàu nghèo, giống nòi” (1).

Sở dĩ Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn tổ chức một cuộc bầu cử sớm như vậy là vì Người muốn có một chính quyền chính thức của nhân dân, do chính nhân dân, chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước lập ra. Người nhận thức sâu sắc rằng, bầu cử là phương thức thể hiện cội nguồn của quyền lực nhà nước là ở nhân dân, bản chất dân chủ của một nhà nước là do nhân dân lập nên. Quyền uy của nhà nước có được chỉ bắt nguồn từ sự bỏ phiếu tín nhiệm của nhân dân. Vì vậy, bầu cử như là một trong những phương thức thừa nhận của nhân dân trong và ngoài nước về tính hợp pháp và chính đáng của một nhà nước. Chủ quyền nhà nước trong chế độ dân chủ và pháp quyền thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước của mình bằng nhiều hình thức, trong đó có hình thức thông qua người đại diện do mình bầu ra. Những người đại diện này thực hiện quyền lực nhà nước theo một nhiệm kỳ xác định. Hết nhiệm kỳ theo luật định nhân dân lại thực hiện quyền bầu cử của mình để thể hiện sự tín nhiệm trong việc trao quyền lực nhà nước của mình cho người đại diện. Do vậy, bầu cử là phương thức buộc người thắng cử phải có trách nhiệm với nhân dân bầu ra mình. Bằng bầu cử mà nhân dân có quyền bày tỏ sự tín nhiệm của mình đối với người cầm quyền. Bầu cử chính là phương thức để các công dân kiểm soát quyền lực nhà nước mà mình đã ủy thác. Nếu người cầm quyền do mình bầu ra tỏ ra không xứng đáng, khi hết nhiệm kỳ, công dân có quyền không bầu cử họ. Như vậy, nhờ bầu cử mà quyền lực nhà nước sau một thời hạn xác định lại trở về với nhân dân. Bầu cử là một trong những cách thức buộc các quan chức nhà nước phải làm tròn nhiệm vụ và quyền hạn được nhân dân giao cho.

Với quan niệm đó, cuộc bầu cử sắp tới là một dịp để nhân dân ủy quyền, giao quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước ở tất cả các cấp trong bộ máy nhà nước ta. Cơ sở của chế độ bầu cử là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước cũng như của các cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước ta là do nhân dân trao cho thông qua bầu cử. Đây chính là cơ sở để đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước cũng như quan chức nhà nước trước nhân dân. Sự chịu trách nhiệm trước nhân dân chính là sự thể hiện của việc nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hình thức bầu cử. Vì vậy, cuộc bầu cử sắp tới phải thật sự trở thành ngày hội dân chủ để cho “toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc của nhà nước” (2) như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh trong cuộc tổng tuyển cử đầu tiên ở nước ta sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một phương thức và là giải pháp để nhân dân giao quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước một cách thực chất.

2. Gắn chặt với quyền bầu cử là quyền bãi nhiệm đại biểu của cử tri – một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân

Bãi nhiệm là một chế định pháp lý thể hiện bản chất ưu việt và mang tính chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đại biểu được nhân dân bầu ra phải chịu sự giám sát của nhân dân, khi đại biểu không được sự tín nhiệm của nhân dân thì bị nhân dân bãi miễn. “Dân có quyền bầu, thì cũng có quyền bãi miễn những người phụ lòng tin của mình” (3). Vì thế quyền bãi nhiệm đại biểu của cử tri nước ta được ghi nhận từ Hiến pháp năm 1946 – Hiến pháp đầu tiên của nước ta. “Công dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra” (Điều 20). Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 đều ghi nhận: “Cử tri có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, nếu đại biểu đó không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, có hai hình thức bãi miễn đại biểu. Đó là, đối với đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm. Đối với đại biểu Hội đồng nhân dân thì bị cử tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm.

Theo đó, đại biểu Quốc hội không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì tùy theo mức độ sai phạm mà bị Quốc hội hoặc cử tri bãi miễn. Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc đưa Quốc hội bãi nhiệm hoặc cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc tỉnh nơi có đại biểu bị bãi miễn. Đối với đại biểu Hội đồng nhân dân thì có thể bị Hội đồng nhân dân bãi miễn hoặc đưa ra để cử tri ở đơn vị bầu ra đại biểu ấy bãi miễn theo đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân hoặc Mặt trận tổ quốc cùng cấp.  Đi liền với bầu cử, nghĩ rằng sau khi thực hiện quyền, cử tri cần thường xuyên quan tâm theo dõi những người mình đã tín nhiệm bầu ra để thực hiện quyền bãi nhiệm đại biểu của mình.

3. Hoàn thiện pháp luật về bầu cử, ứng cử, bãi miễn ĐBQH, đại biểu HĐND

Như đã phân tích ở trên, việc công dân thực hiện quyền bầu cử, ứng cử, bãi miễn chính là các phương thức thông qua đó nhân dân lựa chọn những người mà mình sẽ giao quyền, ủy quyền hoặc thu hồi lại quyền đã giao. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về bầu cử, ứng cử và bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân có ý nghĩa quan trọng trong việc đổi mới cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa nhà nước và công dân. Quá trình này cần chú ý những vấn đề sau:

Mở rộng phạm vi lựa chọn của nhân dân bằng cách tăng số lượng ứng cử viên cho một đơn vị bầu cử. Thực tế cho thấy, một tỷ lệ sít sao giữa đại biểu được bầu và số ứng cử viên sẽ thu hẹp khả năng lựa chọn của nhân dân và do vậy, sẽ rất khó khăn cho việc lựa chọn được những đại biểu thật xứng đáng. Việc tăng số lượng ứng cử viên không phải chỉ mang tính chất cơ học rồi sau đó lại định hướng sự lựa chọn của cử tri bằng cách sắp xếp danh sách ứng cử viên trong đó tạo ra sự chênh lệch quá lớn giữa ứng cử viên này với ứng cử viên khác, làm cho ứng cử viên này chỉ là “quân xanh” cho các ứng cử viên khác. Cần có những quy định cụ thể, rõ ràng về trình tự, thủ tục tự ứng cử để tạo điều kiện cho nhiều người đáp ứng đủ những điều kiện của ứng cử viên có thể tham gia tự ứng cử. Nên chăng một đơn vị bầu cử có ứng cử viên do Đảng cử, ứng cử viên do Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân giới thiệu và ứng cử viên tự do để dành một ghế trong Quốc hội hoặc hội đồng nhân dân đối với đơn vị bầu cử đó.

Hoàn thiện các quy định về giới thiệu ứng cử viên, hiệp thương, vận động tranh cử, thông tin về các ứng cử viên… nhằm tạo điều kiện cho cử tri tích cực tham gia vào quá trình bầu cử. Các cấp ủy Đảng cần giới thiệu nhiều đảng viên ứng cử vào một chức danh để thực hiện tranh cử giữa các ứng cử viên, qua đó để nhân dân sàng lọc, lựa chọn đại biểu của mình.

Quy định và áp dụng các quy định về tiêu chuẩn đại biểu và cơ cấu đại biểu sao cho đảm bảo sự hài hòa giữa yêu cầu về tiêu chuẩn đại biểu với yêu cầu về cơ cấu, thành phần đại biểu. Để đảm bảo chất lượng đại biểu, cần ưu tiên đề cao tiêu chuẩn đại biểu trước rồi mới tính đến yêu cầu bảo đảm cơ cấu, thành phần sau.

Tiếp tục cụ thể hóa các quy định liên quan đến quá trình hiệp thương bầu cử. Các khoản của Điều 3 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội cần được giải thích cụ thể và rõ ràng để có cách hiểu và áp dụng thống nhất trong quá trình ứng cử, hiệp thương và bầu cử của cử tri.

Cần xác định tỷ lệ hợp lý giữa đại biểu chuyên trách và đại biểu kiêm nhiệm. Tỷ lệ này phải dựa trên cơ sở số đại biểu chuyên trách cần có làm việc ở các Ủy ban của Quốc hội, đại biểu chuyên trách ở địa phương. Để đảm bảo tính độc lập, khách quan, vô tư của các đại biểu Quốc hội, cần quy định đại biểu Quốc hội không kiêm nhiệm một số lĩnh vực hoạt động nhất định trong các cơ quan trong bộ máy nhà nước, đặc biệt là một số chức vụ quan trọng trong các cơ quan quản lý nhà nước.

Để phát huy hơn nữa quyền của công dân trong việc trực tiếp bầu ra những người xứng đáng tham gia vào các cơ quan nhà nước cần nghiên cứu mở rộng phạm vi các chức danh được thành lập bằng con đường bầu cử. Chẳng hạn, thực hiện bầu cử trực tiếp Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn…

Tiếp tục cụ thể hóa các quy định về quyền bãi miễn của cử tri đối với các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.

Hiện nay, vấn đề bãi miễn đại biểu dân cử chỉ được quy định ở Hiến pháp, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Quy định như vậy là chưa tương xứng với tầm quan trọng của chế độ bãi miễn đại biểu dân cử. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, chế độ bãi miễn đại biểu cũng có ý nghĩa chính trị và pháp lý quan trọng như chế độ cử tri bầu ra người đại biểu của mình. Vì vậy, thủ tục bãi miễn cũng phải tuân theo những trình tự luật định rõ ràng thì mới có khả năng thực thi trên thực tế. Do đó, cần ban hành văn bản pháp luật riêng về chế độ bãi miễn. Để làm điều đó, trước mắt thực hiện tốt chế độ công khai trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước. Trong đó, cần đặc biệt chú trọng chế độ báo cáo, thông tin, công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước; thực hiện chế độ kê khai tài sản của cán bộ, công chức nhà nước.

Về lâu dài, cần nghiên cứu tiến tới xây dựng Luật về giám sát của nhân dân trên cơ sở rà soát, pháp điển hóa, hệ thống hóa các quy định về giám sát của nhân dân trong các văn bản như: Luật khiếu nại, tố cáo, Luật Thanh tra, Luật Mặt trận tổ quốc, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Các quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở… Trong đó, các vấn đề về thẩm quyền, lĩnh vực, nội dung, hình thức, thủ tục giám sát của nhân dân cần được xác định rõ. Bên cạnh đó, cần tăng cường các biện pháp bảo đảm bí mật, bảo đảm an toàn cho chủ thể giám sát là những người dám nói lên sự thật, dũng cảm bảo vệ chân lý, để cho họ không còn phải e dè, sợ sệt khi phát hiện và tố cáo những hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức nhà nước.

______________________________________

1. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia – 1995, T4, Tr 6-7.

2. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia – 1995, T4, tr 6-7.

3. Đỗ Mười: Báo cáo tại hội nghị Ban chấp hành TW8 Khóa VII ngày 25.1.1955.

Luật trong cuộc sống

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh
Quốc hội và Cử tri

Quy trình mới có thể rút ngắn thời gian ban hành luật từ 22 tháng xuống còn 10 tháng

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 đã tách bạch quy trình chính sách với việc lập Chương trình lập pháp hàng năm, phân định rõ hơn quy trình xây dựng chính sách và quy trình soạn thảo. Với tinh thần đó, đối với các luật, pháp lệnh cần thực hiện quy trình chính sách sẽ gồm 4 bước cơ bản. Trên cơ sở chính sách được thông qua sẽ tiến hành soạn thảo theo quy trình 7 bước, trong đó đơn giản một số thủ tục hoặc một số loại hồ sơ, tài liệu. Quy trình này có thể rút ngắn thời gian ban hành luật từ 22 tháng xuống còn 10 tháng.

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các nghị định hướng dẫn
Luật trong cuộc sống

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các nghị định hướng dẫn

Theo Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật (Bộ Tư pháp), trong chương trình làm việc Kỳ họp bất thường lần thứ Chín, Quốc hội sẽ xem xét, biểu quyết thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi). Để bảo đảm tính thống nhất và khả thi, Bộ Tư pháp đang gấp rút hoàn thiện ba nghị định hướng dẫn thi hành Luật.

Lòng dân hóa thân vào quyết sách của Quốc hội
Quốc hội và Cử tri

Lòng dân hóa thân vào quyết sách của Quốc hội

ThS.Nguyễn Vân Hậu

Trong nhiều quốc kế dân sinh được quyết nghị tại Kỳ họp thứ Tám, các chính sách về bảo hiểm y tế (BHYT), bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân, quan tâm đến người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn... đã khẳng định bản chất ưu việt của chế độ ta luôn đặt lên hàng đầu mục tiêu bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Các quyết sách được lòng dân của Quốc hội chính là sự hóa thân của lòng dân, của ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của Nhân dân, là thước đo giá trị của nền dân chủ trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Đức Tâm
Luật trong cuộc sống

Nâng quy mô vốn đầu tư công của dự án quan trọng quốc gia từ 30.000 tỷ đồng trở lên

Luật Đầu tư công năm 2024 đã nâng quy mô vốn đầu tư công của dự án quan trọng quốc gia từ 30.000 tỷ đồng trở lên; quy mô của dự án nhóm A, nhóm B và nhóm C với quy mô gấp 2 lần so với các quy định hiện hành. Phân cấp thẩm quyền cho người đứng đầu bộ, cơ quan trung ương quyết định chủ trương đầu tư dự án nhóm A do cơ quan, tổ chức mình quản lý với quy mô vốn dưới 10.000 tỷ đồng.

Ảnh minh họa
Luật trong cuộc sống

Đơn giản hóa thủ tục hành chính ngay từ khâu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Đây là một trong những nội dung nêu trong Công điện số 131/CĐ-TTg về việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm phiền hà, chi phí tuân thủ cho người dân, doanh nghiệp ngay từ khâu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký ban hành ngày 11.12 vừa qua.

Bảo đảm sử dụng đất công bằng, công khai, hiệu quả
Luật trong cuộc sống

Bảo đảm sử dụng đất công bằng, công khai, hiệu quả

Tạo hành lang pháp lý an toàn, đầy đủ, thuận lợi, ổn định, khả thi cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống người dân, nhất là các quy định chuyển tiếp, bảo đảm điều kiện tiếp cận, sử dụng đất và nguồn lực khác công bằng, công khai, hiệu quả. Đây là một trong những nội dung quyết nghị của Quốc hội nêu trong Nghị quyết về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội.

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị giải trình làm rõ những vấn đề Đoàn giám sát nêu
Luật trong cuộc sống

Tiếp tục sửa đổi các luật liên quan để gỡ khó cho thị trường bất động sản

Sau khi làm việc với 12 tỉnh, thành phố, 8 bộ, ngành, Đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm 2023” đã có cuộc làm việc với Chính phủ vào chiều 13.9.

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị
Luật trong cuộc sống

Cần cơ chế phù hợp, xử lý dứt điểm các dự án đang đình trệ

Cơ chế giải quyết phù hợp, xử lý dứt điểm đối với các dự án bất động sản gặp khó khăn, vướng mắc pháp lý, đình trệ do triển khai thực hiện, nhiều dự án kéo dài, pháp luật qua các thời kỳ có nhiều thay đổi. Đây là vấn đề được các thành viên Đoàn giám sát của Quốc hội, đại diện các bộ, ngành tập trung phân tích tại cuộc làm việc với Chính phủ về quản lý thị trường bất động sản, phát triển nhà ở xã hội.

Tài liệu của HĐND, UBND cấp xã phải nộp vào lưu trữ lịch sử
Luật trong cuộc sống

Tài liệu của HĐND, UBND cấp xã phải nộp vào lưu trữ lịch sử

Tại họp báo công bố Lệnh của Chủ tịch Nước về các luật được thông qua tại Kỳ họp thứ Bảy, Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước Đặng Thanh Tùng nêu rõ, tài liệu của HĐND, UBND cấp xã phải nộp vào lưu trữ lịch sử. Quy định này xuất phát từ thực tế khối lượng hồ sơ, tài liệu được lưu trữ tại cấp xã rất lớn, trong khi đó, nguồn lực về con người, cơ sở vật chất dành cho công tác này rất hạn chế, dẫn đến việc lưu trữ tại nhiều địa phương không bảo đảm.

Tác động tích cực đến thị trường bất động sản
Luật trong cuộc sống

Tác động tích cực đến thị trường bất động sản

Theo Luật sư HOÀNG TUẤN VŨ, Công ty Luật TNHH Tuệ Anh, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội, Luật Đất đai năm 2024 có nhiều quy định thiết thực, hợp lý, chắc chắn khi có hiệu lực thi hành sẽ tác động đáng kể đến thị trường bất động sản, đáp ứng mong đợi của chính quyền, doanh nghiệp và người dân.

Quy định chuyển tiếp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất
Luật trong cuộc sống

Quy định chuyển tiếp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất

Luật Đất đai (sửa đổi) được Quốc hội Khóa XV thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ Năm được xem là bước tiến lớn trong việc hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý và sử dụng đất đồng bộ; đồng thời, khắc phục tình trạng lãng phí, hoang hóa, ô nhiễm, suy thoái và những tồn tại, vướng mắc về quản lý và sử dụng đất do lịch sử để lại. Đặc biệt, khi Luật có hiệu lực, những quy định chuyển tiếp vẫn bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho người sử dụng đất theo hướng có lợi nhất.

Bảo đảm quyền lợi hơn cho người dân có đất bị thu hồi
Luật trong cuộc sống

Bảo đảm quyền lợi hơn cho người dân có đất bị thu hồi

Luật Đất đai (sửa đổi) được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ Năm, Quốc hội Khóa XV được xem là đạo luật quan trọng, bởi với nhiều điểm mới, Luật sẽ tác động và ảnh hưởng đến hầu hết mọi mặt của đời sống xã hội, nhất là việc bảo đảm quyền lợi hơn cho người dân có đất bị thu hồi. Theo đó, kỳ vọng khi Luật chính thức có hiệu lực và đi vào cuộc sống, cả người dân, doanh nghiệp, các tổ chức khác và Nhà nước đều được hưởng lợi.

Giảm tỷ lệ cổ phần của cổ đông lớn có giảm tỷ lệ sở hữu chéo ngân hàng không?
Luật trong cuộc sống

Giảm tỷ lệ cổ phần của cổ đông lớn có giảm tỷ lệ sở hữu chéo ngân hàng không?

Để ngăn chặn tình trạng sở hữu chéo, gây nhiều hệ lụy cho hệ thống ngân hàng, dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) cần tiếp tục hoàn thiện nhiều nội dung. Trong đó, có các quy định về những cá nhân, tổ chức là cổ đông của ngân hàng; công bố thông tin; quản trị ngân hàng; cơ chế thanh tra, giám sát…