Việt Nam có 3 chỉ số đứng đầu thế giới
Theo báo cáo của WIPO, Việt Nam tiếp tục được ghi nhận tăng 2 bậc về Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu, là một trong 8 quốc gia thu nhập trung bình cải thiện thứ hạng nhiều nhất tính từ năm 2013, đồng thời cũng là một trong 3 quốc gia giữ kỷ lục có thành tích vượt trội so với mức độ phát triển trong 14 năm liên tiếp.
Trong 14 năm liền, Việt Nam luôn có kết quả đổi mới sáng tạo (ĐMST) cao hơn so với mức độ phát triển, cho thấy hiệu quả trong việc chuyển các nguồn lực đầu vào thành kết quả đầu ra ĐMST. Điểm số các trụ cột của Việt Nam cao hơn các quốc gia ở nhóm thu nhập trung bình thấp và thậm chí còn cao hơn nhóm thu nhập trung bình cao, ngoại trừ trụ cột 2 về Nguồn nhân lực và nghiên cứu.
Đặc biệt, năm 2024, Việt Nam có 3 chỉ số đứng đầu thế giới là chỉ số: nhập khẩu công nghệ cao; xuất khẩu công nghệ cao; và xuất khẩu hàng hóa sáng tạo. Có 3 chỉ số thuộc nhóm 10 quốc gia dẫn đầu thế giới là: tốc độ tăng năng suất lao động (xếp hạng 3); số lượng ứng dụng điện thoại thông minh được tạo ra (xếp hạng 7); và phần chi nghiên cứu và phát triển do doanh nghiệp trang trải/tổng chi nghiên cứu và phát triển (xếp hạng 9).
"Đổi mới sáng tạo là yêu cầu khách quan, lựa chọn chiến lược và ưu tiên hàng đầu của các nước trong quá trình phát triển nhanh và bền vững và không để ai bị bỏ lại phía sau. Trong quá trình ĐMST, Việt Nam xác định quan điểm phải lấy người dân làm trung tâm, làm chủ thể, người dân phải thực sự được hưởng thụ thành quả của ĐMST. Lấy ĐMST vừa là động lực, vừa là nguồn lực, mục tiêu cho sự phát triển, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần thúc đẩy xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường thịnh vượng, người dân Việt Nam ngày càng được hạnh phúc và ấm no"
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu trực tuyến tại lễ công bố Báo cáo GII 2024
Về cơ sở hạ tầng, Việt Nam xếp hạng 56, tăng 14 bậc từ vị trí 70 năm 2023. Kết quả này đạt được do WIPO thay đổi phương pháp, theo đó, WIPO đã bỏ chỉ số 3.3.2. Chất lượng môi trường (theo đánh giá của Đại học Yale) mà Việt Nam luôn có thứ hạng thấp trong nhiều năm qua (năm 2023 xếp hạng 130), thay vào đó sử dụng chỉ số mới là 3.3.2. Tỷ lệ sử dụng nguồn năng lượng phát thải carbon thấp (%). Chỉ số này trong GII 2024 Việt Nam đạt 26,8%, xếp hạng 46.
Hai chỉ số về năng lượng khác ở trụ cột này cũng có cải thiện tích cực là chỉ số 3.2.1. Sản lượng điện, GWh/triệu dân tăng 5 bậc từ thứ hạng 75 năm 2023 lên 70 và chỉ số 3.3.1. GDP/đơn vị năng lượng sử dụng tăng 4 bậc từ thứ hạng 72 lên 68.
Về trình độ phát triển của doanh nghiệp, Việt Nam xếp hạng 46, tăng 3 bậc so với năm 2023. Trong đó điểm mạnh nhất vẫn là chỉ số 5.3.2. Nhập khẩu công nghệ cao (% tổng giao dịch thương mại), tăng 3 bậc, trở về vị trí dẫn đầu thế giới (hạng 1). Chỉ số 5.3.1. Trả tiền bản quyền, % tổng giao dịch thương mại tăng 5 bậc từ thứ hạng 85 năm 2023 lên 80. Ngoài ra, các chỉ số trong nhóm chỉ số về 5.2. Liên kết sáng tạo đều có sự cải thiện tích cực, đóng góp vào sự tăng hạng của nhóm chỉ số này từ hạng 43 năm 2023 tăng 2 bậc lên 41.
Về đầu ra Sản phẩm tri thức và công nghệ, Việt Nam xếp hạng 44, tăng 4 bậc so với năm 2023. Trong đó, hai chỉ số tiếp tục là điểm mạnh của Việt Nam gồm: chỉ số 6.3.3. Xuất khẩu công nghệ cao (% tổng giao dịch thương mại) đã đứng đầu thế giới sau khi xếp hạng 3 năm 2023; chỉ số 6.2.1. Tốc độ tăng năng suất lao động (GDP/người lao động) xếp hạng 3, tăng 1 bậc so với năm 2023.
Tiếp tục đột phá về cơ chế cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Nhận xét về báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2024, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh những cải thiện tích cực này là nhờ sự chỉ đạo quyết liệt, thường xuyên, liên tục của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ cũng như nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức khoa học và công nghệ, các tổ chức hỗ trợ ĐMST và cộng đồng doanh nghiệp trong những năm qua, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế đang có sự phục hồi tương đối sau tác động nặng nề của đại dịch Covid-19.
Các doanh nghiệp đã tích cực, chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh và ĐMST, thể hiện rất rõ về tỉ lệ chi cho nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp chiếm phần lớn trong tổng chi nghiên cứu và phát triển, tăng cường liên kết viện - trường - doanh nghiệp, liên kết cụm.
Vẫn theo Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt, để duy trì và tiếp tục cải thiện thứ hạng GII một cách bền vững, Việt Nam cần tiếp tục chú trọng cả các yếu tố đầu vào của ĐMST, trong đó, lưu ý cải thiện các nhóm chỉ số hiện còn chưa tốt. Đặc biệt, cần có các đột phá trong cơ chế, chính sách, tạo động lực cho phát triển khoa học, công nghệ và ĐMST và ứng dụng kết quả khoa học, công nghệ và ĐMST vào sản xuất để phát triển khoa học, công nghệ và ĐMST thực sự là lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực chính của mô hình tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế số.
Bên cạnh đó, nâng cao năng lực của doanh nghiệp về tiếp thu, làm chủ và từng bước tham gia tạo ra công nghệ. Tăng cường nhập khẩu và năng lực tiếp thu công nghệ tiên tiến của thế giới; ưu tiên các dự án thân thiện với môi trường, có tiềm năng đóng góp lan tỏa, liên kết với doanh nghiệp trong nước để tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Tiếp tục phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, trong đó quan tâm đến các khởi nghiệp sáng tạo có tác động tích cực đến môi trường và xã hội.
Cùng với đó, thực hiện Nghị quyết 02/NQ-CP của Chính phủ, hàng năm các bộ, ngành theo chức năng, nhiệm vụ được giao cần xác định và triển khai những giải pháp căn cơ, đồng bộ, dài hạn nhằm cải thiện các chỉ số GII có thứ hạng thấp trong nhiều năm liền; đồng thời có giải pháp hiệu quả, nhanh chóng khắc phục tình trạng thiếu dữ liệu, dữ liệu không cập nhật để kết quả đánh giá sát thực hơn. Các địa phương cần tích cực có các giải pháp cải thiện chỉ số PII qua đó góp phần cải thiện chỉ số GII.
Hàng năm Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO tổ chức công bố báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu là bộ công cụ uy tín đánh giá xếp hạng năng lực đổi mới sáng tạo của các quốc gia được WIPO tổ chức thực hiện từ năm 2007. Qua 17 lần công bố, báo cáo GII giúp đánh giá năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia và sự phát triển so với các nền kinh tế trong cùng khu vực hoặc nhóm thu nhập. Qua các chỉ số, mỗi quốc gia thấy được bức tranh toàn cảnh cũng như các điểm mạnh, điểm yếu từ đó có điều chỉnh về chiến lược chính sách kinh tế và đổi mới sáng tạo. Để xếp hạng các quốc gia sẽ dựa vào 81 chỉ số, tính bằng giá trị trung bình thuộc hai bảng chỉ số phụ đầu vào và đầu ra đổi mới sáng tạo gồm 7 trụ cột: thể chế vĩ mô; nguồn nhân lực và nghiên cứu; cơ sở hạ tầng; thị trường và môi trường kinh doanh; trình độ phát triển của thị trường; tri thức và công nghệ, sản phẩm sáng tạo.
Tại Việt Nam, Chính phủ sử dụng bộ chỉ số này như một trong các công cụ quản lý điều hành quan trọng. Sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ và vào cuộc của các bộ ngành trong việc chủ động phát hiện nguyên nhân, hạn chế, từ đó có kế hoạch, giải pháp điều chỉnh chính sách góp phần cải thiện các chỉ số thành phần. Bộ Khoa học và Công nghệ được giao nhiệm vụ là đầu mối theo dõi, điều phối chung. Từ năm 2017 đến nay, chỉ số GII của Việt Nam liên tục được cải thiện, tăng từ vị trí 59 (năm 2016) lên 44 năm 2024.