Xiêm Riệp (Phần 1)<br><I>Truyện của</I> Ý Nhi

- Thứ Tư, 27/08/2014, 08:33 - Chia sẻ

>> Xiêm Riệp (Phần cuối)

Bước ra khỏi cửa đền, chị nhìn thấy một người nằm dài dưới các bậc thềm, hai tay đan nhau làm gối, mắt lim dim hướng lên ngọn tháp, nơi có khuôn mặt người đang mỉm cười thanh thản và những họa tiết chạm khắc tinh vi trên đá. Thấy có bóng người ngang qua, anh ta bật dậy, tay chắp lại trước ngực, cúi đầu, vẻ như xin lỗi về tư thế có phần bất thường của mình.

Chị bước vội, tránh những vũng nước nhỏ của cơn mưa đêm qua. Chị không có nhiều thời gian. Sau hai ngày họp về một số vấn đề liên quan trong việc giáo dục trẻ vị thành niên do UNESCO tổ chức, chị chỉ có một ngày ở Xiêm Riệp. Người bạn Campuchia đã vạch cho chị một chương trình tham quan khít khịt từng phút một. Chị phải chạy mới có thể tạm đủ thời gian, người bạn nói, khi chia tay chị ở bậc thềm trước cửa hội trường. Chị mua sẵn bánh mì, nước đóng chai và mấy trái chuối, để không tốn thời gian cho những bữa ăn rồi lục tìm tiền lẻ mua cho đám trẻ bán dạo đang túm tụm dưới gốc bồ đề lớn mấy bức bưu ảnh di tích Angkor, mấy chiếc vòng nhựa nhiều màu, mấy chiếc dây đeo chìa khóa hình tháp rồi bứt khỏi chúng, trèo lên chiếc tuk tuk đang đợi sẵn để đến bảo tàng.

22 USD cho một vé. Chị cất cuống vé vào sổ tay ghi chép rồi đi men theo chiếc cầu thang xoáy trôn ốc rộng rãi, sáng sủa, tinh tế. Đắm chìm trong vẻ đẹp của đền đài, của cảnh trí, của những pho tượng Phật, những câu chuyện lịch sử… chị có cảm giác đang đi lạc vào một nơi chốn kỳ lạ, một thế giới huyền ảo, chìm trong làn ánh sáng âm âm sương khói phủ che, miên man dẫn dắt. Cuối cùng, chị dừng lại chỗ trưng bày những bức tranh Batik với vùng ánh sáng thực, chan hòa nắng hạ. Hầu hết các bức tranh đều vẽ những cô gái với nét đẹp đặc trưng của vùng Đông Nam Á: da ngăm đen, mắt to, môi dày, mặc những chiếc váy màu sặc sỡ, trông rất lạ. Giữa lúc người hướng dẫn viên đang giới thiệu cho chị về nguồn gốc tên gọi Batik, về nghệ thuật thủ công truyền thống này, về các công đoạn bắt buộc phải trải qua, về các bức tranh làm theo phong cách Batik… thì có một người từ đâu đó đến nhập bọn. Anh ta hỏi, các sản phẩm Batik ở châu Á khác với châu Phi như thế nào. Nghe thấy một giọng Anh không thật Anh, chị tò mò quay lại, ngay lập tức nhận ra người đàn ông nằm dài trước đền. Chị mỉm cười gật đầu. Người đàn ông chắp tay trước ngực, khẽ cúi đầu đáp lại. Hơi ngạc nhiên về cách chào hỏi nhẹ nhàng, kín đáo, rất Campuchia của anh nhưng chị không hỏi, cũng không dừng lại. Chị còn quá ít thời gian. Vừa chạy xuống những bậc thang của bảo tàng chị vừa tự hỏi, làm sao mình lại nhận ra anh ta trong đám du khách đông đúc, đủ màu đủ vẻ ở thành phố nhỏ này nhỉ.


Minh họa của Vũ Huyên  

Tại quầy bán đồ lưu niệm, chị tìm mua một chiếc lọ gốm làm bằng tay, khi nhớ đến Vỹ. Mỗi khi có dịp đi xa Vỹ cũng thường mua những món quà nhỏ cho chị, lúc thì chiếc túi, khi thì chiếc mũ, khi là chiếc vòng đá… Lần đi Bali vừa rồi anh đã mang về một tấm vải Batik rất đẹp. Có thể vì vậy mà mình muốn tìm hiểu về nghệ thuật độc đáo này, chị nghĩ thầm. Vỹ thì chỉ thích đồ gốm, nhất là những đồ gốm làm bằng tay. Các kỳ nghỉ, anh dành gần hết thời gian lặn lội ra Thổ Hà, ra Bát Tràng, ra Hội An, ra Bàu Trúc… để tìm mua sản phẩm gốm. Anh đặc biệt yêu làng gốm Bàu Trúc. Anh nói không thôi về sự đơn chiếc, về sự không lặp lại, về dấu ấn của cá nhân trên mỗi sản phẩm. Vỹ bảo, phải đến tận nơi đứng nhìn những người thợ nhào nặn đất, vuốt đất bằng tay, hoàn toàn không có khuôn mẫu, không có bàn xoay… mới thấu hiểu hết vẻ đẹp mà họ tạo nên. Vỹ có một cuốn album riêng chụp ảnh các nghệ nhân Bàu Trúc đang làm việc, ghi chú cẩn thận từng tên người, từng công đoạn tạo nên sản phẩm. Vỹ đã mấy lần rủ chị đi Bàu Trúc nhưng lúc người này rỗi thì người kia bận nên mãi mà vẫn chưa đi được. Nhà anh la liệt đồ gốm. Chị cười, tiền của Vỹ biến thành đất hết cả. Vỹ không đáp, mắt chăm chú nhìn hai chiếc bình có những vòng tròn treo hai bên như khuyên tai của phụ nữ vừa mua được từ một cửa hàng gốm giữa lòng thành phố. Vỹ bảo, hình như người chủ cũng không quý chúng, họ vứt lăn lóc nơi góc nhà. Vỹ bảo, anh đã chạy ngang qua, không hiểu sao lại quay lại, như có ai gọi mình vậy. Hai chiếc bình gọi Vỹ à, chị hỏi. Vỹ đáp, chính xác. Có lúc chị nghĩ, ngoài mấy món đồ gốm ra hình như Vỹ chẳng quan tâm đến điều gì, đến người nào.

Chị vừa săm soi mấy chiếc lọ gốm vừa nghĩ ngợi về Vỹ. Rút cục thì mối quan hệ giữa hai người là gì nhỉ. Là bạn, là đồng nghiệp thân thiết, là… Thôi, không nghĩ nữa. Chị đưa chiếc bình gốm có hình đầu voi cho người bán hàng. Họ không sẵn tiền lẻ, lại không chịu nhận đồng 2 USD (mãi sau này chị mới biết người Khơmer coi đó là đồng tiền may mắn, không dùng để mua bán), cô nhân viên phải chạy đi đâu đó lấy tiền trả lại nên khá mất thời gian. Lúc chị bước ra khỏi bảo tàng thì đã quá trưa. Người lái xe tuk tuk quen, mang bảng hiệu số 09 đã ngồi sẵn trên xe, ra hiệu chào chị. Chị đã chọn anh ta vì con số 9 yêu thích. Người lái xe vui tính, hiểu về thành phố khá tường tận và sẵn lòng chiều khách, bất cứ đề nghị nào cũng được OK với một nụ cười hiền hòa.

Chị vừa gặm bánh mì vừa liếc nhìn đồng hồ. Chỉ còn bốn tiếng. Chị có một cái hẹn xem múa Apsara trong thành phố vào lúc 18 giờ. Chị hỏi, chừng ấy thời gian có kịp đến núi Ku Len không. Người lái xe cười, đường ngắn mà, chỉ chưa tới 50 km. Đến thì không vấn đề, chỉ sợ không đủ thời gian lên chùa Pang Thom. Đã đến Xiêm Riệp, không thể không đến Ku Len. Đã đến Ku Len không thể không lên chùa. Chùa thiêng lắm. Đó là nơi dân chúng tôi đi hành hương ai cầu xin điều gì cũng được như ý. Chị bảo, thật sao, tôi chỉ dám xin một điều thôi, rồi thúc giục người lái xe, cứ đi đi rồi tính. Ở Việt Nam chúng tôi có câu: Nước tới đâu bắc cầu tới đó. Chị đang tìm cách giải thích câu thành ngữ cho dễ hiểu thì người lái xe cười lớn, tôi còn biết câu Liệu cơm gắp mắm nữa. Anh ta bảo do một du khách Việt Nam dạy cho. Chị cười thầm. Biết đâu vị khách đó chẳng là Vỹ. Vỹ thuộc nhiều ca dao tục ngữ Việt, chuyển ngữ rất uyển chuyển, hợp tình hợp cảnh khi giao dịch với khách nước ngoài. Mình bị nhiễm thói quen dùng ca dao tục ngữ  từ lúc nào nhỉ. Chị lắc lắc đầu, xua đi những suy nghĩ mung lung rồi ra dấu nhắc người lái xe nhanh hơn một chút vì trời bỗng dưng sầm xuống. Các xe tuk tuk chạy ngược lại đã thấy che rèm hai bên để chắn gió.

Đến Ku Len thì trời bắt đầu mưa. Mưa nhỏ, kiểu như mưa xuân ở Hà Nội. Chị hỏi người lái xe, bây giờ có còn mìn trên đường không. Anh ta lắc đầu, mấy năm trước thôi, từ mươi năm nay có đường mới nên nói chung là ổn rồi. Chị quyết định đi ngay, được đoạn nào hay đoạn đó. Vỹ gọi chị là kẻ tham công tiếc việc, lúc nào cũng tất bật, đi như ma đuổi, làm như trâu vùi. Rồi anh dài giọng, chậm lại, chậm lại, chậm lại. Chị đỏ mặt, thì tôi chẳng chậm như rùa đấy thôi. Vỹ không hiểu câu đùa (hay cố tỏ ra không hiểu) vẫn chúi đầu vào bản tin trục vớt đồ gốm từ con tàu đắm tại Bình Sơn, Quảng Ngãi. Thế nhưng chị vừa đứng dậy, Vỹ đã vội vã ngăn lại, khoan, đợi một chút, xem hết bản tin rồi mình đi ăn tối. Tôi vừa tăm được một chỗ cực hay. Tay chủ quán cũng mê gốm. Chị thở dài, trong đầu óc tay này có những chỗ thật u tối. Rồi lại nghĩ, hay đầu óc mình có chỗ u tối nhỉ. Cô bạn thân từ hồi học cấp hai, chả mắng mình thuộc loại ngu lâu khó đào tạo đấy thôi. Chị bật cười. Người lái xe dặn với theo, đường trơn đấy. Chị quay lại, ra dấu cám ơn rồi trùm chiếc khăn mỏng lên đầu, quày quả bước đi.

 Mới đi một quãng ngắn mưa đã nặng hạt. Người ta ùn ùn quay lại chỗ các hàng quán dưới chân núi, chỉ mình chị cố đi tiếp vì nghe thấy tiếng kèn, tiếng trống ở đâu đó. Hóa ra, ngay sát chỗ chị đứng, có một túp lều che bằng vải bạt. Trong lều, một nhóm người đang chơi nhạc với các nhạc cụ dân tộc. Dưới gốc cây lớn, bóng tỏa sum suê có mấy băng ghế gỗ đơn sơ và một người đang chăm chú lắng nghe. Chị nhẹ nhàng ngồi xuống bên cạnh, cố không làm gián đoạn mọi việc. Giai điệu các bản nhạc đơn giản, có lẽ đó là các bài dân ca quen thuộc của người Khmer. Sau mỗi bản nhạc ngắn, họ dừng lại như chờ đợi. Người đàn ông vỗ tay, những người chơi nhạc vỗ tay đáp lễ, rồi một người đàn ông mù đưa những chiếc CD ra chào bán. Sau khi nghe vài bản nhạc, chị cũng vỗ tay theo. Người đàn ông quay lại. Chị suýt kêu lên vì quá ngạc nhiên. Vẫn là anh chàng gặp trước đền Bayon và trong bảo tàng. Anh ta nói, giọng điềm nhiên như thể cuộc gặp của hai người bạn vậy, họ chơi hay quá, tôi không bỏ đi được. Rồi nói thêm, chắc chị biết, đây là những người đã bị sát thương vì mìn. Ngày trước khu vực này mìn nhiều lắm, dân bị vấp mìn hàng ngày. Quả thực, những người này đã chọn một cách kiếm sống thật sự đẹp. Anh mua ba chiếc CD của nhóm nhạc, nói là sẽ tặng cho mẹ, cho một người bạn thân và tặng chị, người đang cùng nghe nhạc. Trên tay anh chị còn nhìn thấy cuốn Survivor (Sống sót) của Chum Mey - một người may mắn thoát chết trong trại tù của Khơmer đỏ, là nhân chứng sống tại Bảo tàng Diệt chủng Toul Sleng - vốn là một nhà tù, nơi giết hại hàng ngàn người vô tội (chị cũng vừa được tặng cuốn này trong hội nghị và đang mong có cơ hội gặp gỡ Chum Mey). Chị phân vân một chút rồi nhận món quà, tự nhiên nhớ ra đã hơn một lần mong Vỹ tặng cho mình một cuốn sách, một CD âm nhạc hơn là một lọ nước hoa, một chiếc túi xách...

Mưa mỗi lúc một to. Chỗ ngồi của họ đã bắt đầu ướt. Anh ta hỏi, chị định lên núi sao. Chị gật đầu, hy vọng có một người bạn đường nhưng anh ta quả quyết, sẽ rất nguy hiểm. Chị bảo, mai tôi phải rời đi rồi. Anh ta đáp, thì một ngày khác, một tháng khác, một năm khác. Chúng ta có biết bao cơ hội. Chị đừng vội. Lại cái giọng của Vỹ đây, chị nghĩ thầm khi quay trở lại chỗ bãi xe. Anh ta cho biết phải vội về Xiêm Riệp vì có chương trình buổi tối ở đó. Thấy anh ta loay hoay đi tìm xe bus, chị mời anh cùng đi xe tuk tuk với mình. Ngay lập tức, anh và người tài xế, như hai người bạn, trò chuyện sôi nổi về giá cả, về thuế khóa, về mùa màng, về bầu cử… Thấy chị có vẻ ngạc nhiên, anh bảo, trong vòng mươi năm nay, năm nào tôi cũng đến nơi này. Ngắn nhất thì cũng vài tuần lễ. Mà lần nào cũng tranh thủ đến Ku Len và xem múa Apsara. Tôi bị nghiện rồi. Chị hỏi, anh đi du lịch à. Anh xua tay, không, tôi đâu phải triệu phú, tỷ phú. Tôi chỉ là nhân viên của một tổ chức thiện nguyện thôi. Tôi cũng đã đến quê chị, chỗ những người Stieng ấy. Bình Phước, chị hỏi. Anh đáp, đúng vậy. Tôi đã uống rượu cần, đã nghe họ đánh chiêng, đã chụp rất nhiều ảnh các ngôi nhà Dài, nhà Ngắn, đã xem họ thả diều, đã dự lễ cầu mưa, đã mua về một ít vòng chuỗi, hoa tai… Lần sau tôi sẽ đi Lâm Đồng, Đồng Nai và tìm hiểu tộc Stieng tại đây. Người lái xe quay lại, ở Campuchia ư. Người đàn ông bảo, vâng, có tài liệu nói vậy nhưng chưa xác định được nơi ở chính xác của họ. Thế ông có thể giúp gì cho họ. Người đàn ông tư lự, cũng không có chi nhiều. Tôi lấy tư liệu về báo cáo để tổ chức thiện nguyện có kế hoạch tài chính giúp họ khôi phục, gìn giữ bản sắc văn hóa, giúp đỡ họ xây trường học, trạm y tế… Chị chen vào, vậy là nhiều đấy chứ. Rồi không hiểu sao lại hỏi, anh giao dịch với họ bằng cách nào. Anh ta cười, thường thì có phiên dịch, đôi khi phải tự xoay xở, người ta vẫn gọi là ngôn ngữ body ấy. Người lái xe cũng cười góp chuyện, có khi cách đó lại hiệu quả nhất. Anh phẩy phẩy tay ra dấu cho xe chạy nhanh hơn một chút, người lái xe tăng tốc ngay. Thật hiệu quả, chị nghĩ.

Họ về đến trước Angkor Museum thì đã 17 giờ 30. Cuộc chia tay vội vã. Người đàn ông nói khi đến Việt Nam sẽ tìm chị. Chị nói cám ơn, hẹn gặp lại rồi bước đi, thấy lòng có chút gì như sự bùi ngùi, quyến luyến, quay lại, người đàn ông vẫn còn đứng nguyên chỗ cũ, đưa tay vẫy. Hình như còn kêu to lên một câu gì.

Xếp gọn hành lý vào chiếc va li nhỏ, thay quần áo, nhìn qua gương mặt mình trong gương rồi chạy xuống cầu thang, gửi chìa khóa ở phòng tiếp tân, hẹn sẽ quay về khoảng 22 giờ, chị bước ra phố, có ý tìm chiếc tuk tuk quen mà không thấy. Lúc chiều quên hẹn. Có thể anh ta nghĩ chị đã kết thúc chuyến du ngoạn ngắn ngủi chăng. Vậy mà vừa bước vài bước dọc hè phố, chiếc xe đã đỗ xịch trước mặt. Anh ta cười, tôi không bao giờ quên lịch tham quan của du khách. Họ làm du lịch xịn thật, chị nghĩ.

Chị hơi ngạc nhiên khi thấy nơi có sân khấu múa Apsara cũng chính là nơi người ta có thể ăn tối theo kiểu buffet. Còn sớm. Ở sảnh ngoài, mọi người lui tới tìm đĩa bát thìa đũa và đi vòng vòng quanh các bàn bày thức ăn thức uống. Mãi đến lúc này chị mới thấy đói sau một ngày xuôi ngược. Chị lấy ít cơm chiên và ít rau rồi tìm một chỗ ngồi gần sân khấu. Trên sân khấu, các nhạc công đã ngồi sẵn nhưng có vẻ như buổi diễn còn lâu mới bắt đầu vì còn đợi khách. Cảm thấy có ai đó vừa ngồi xuống trước mặt nhưng chỉ đến khi đứng dậy định đi lấy ít trái cây và nước uống chị mới nhận ra anh. Anh ngồi chống cằm, hơi mỉm cười chào chị. Chị nhìn sững người đàn ông như thể anh vừa mọc từ đất lên vậy, mãi một lúc mới lắp bắp, anh cũng đến đây sao. Anh hỏi, tôi có làm phiền chị không. Không sao, không sao, chị vừa trả lời vừa đứng dậy, vẻ muốn rời đi. Anh bảo, chị để tôi giúp rồi đi nhanh về phía quầy thực phẩm, lát sau quay lại, đặt trước chị một đĩa trái cây và một ly nước tinh khiết lớn. Chị lí nhí cám ơn, tự nhiên muốn òa khóc.

Tháng trước, cô bạn rủ đi coi thầy. Từ chối không được, chị đành đi cùng nhưng tuyên bố chỉ ngồi chầu rìa, không tham dự. Cô bạn đang có chuyện trục trặc tình duyên chi đó, cứ hỏi thầy những câu rất ngớ ngẩn, kiểu như, người có nốt ruồi trên chân mày trái có hợp không, người tuổi Tỵ có tốt không, người giọng thổ thì sao, đặt gương ở phòng khách có hại gì không, tường nên quét sơn xanh hay sơn vàng, nên dùng bếp gas loại nổi hay loại âm, tháng này có đổi máy giặt được không… Chị nhịn không được, cười phá lên thì bị thầy mắng, cười cái gì, lo thân cô đi. Nói cho cô biết, tháng tới cô sẽ gặp người ấy. Nếu trong một ngày, cô gặp người đó bốn lần thì đích thị người đó là người của cô. Chị không dám cười nữa, bỏ ra ngoài nhìn mấy cái cây còi cọc chỗ góc sân nhà thầy để đợi bạn, lẩm bẩm, gặp bốn lần trong một ngày thì ăn nhằm gì. Một ngày mình gặp Vỹ mấy lần nhỉ, ba, bốn, năm, bảy, thậm chí còn nhiều hơn  ấy chứ. Cô bạn trở ra, không hiểu đã lĩnh hội được những gì mà mặt mày tươi tỉnh, đưa tay dứ dứ trước mặt chị, bà nhớ nhé, tháng sau đấy, bốn lần đấy. Rồi hai người kéo nhau đi ăn lẩu mắm, vừa ăn vừa xuýt xoa, nước mắt ràn rụa. Chị đã quên lời phán của thầy, chính xác là đã không để tâm đến điều đó. Vậy mà…

(Số sau đăng hết)