Trăm năm tác giả “Tình ca”

Nếu còn sống, năm nay nhạc sĩ Phạm Duy tròn một trăm tuổi. Nhưng ông đã đi vào cõi vĩnh hằng cách đây ít năm, để lại một sự nghiệp âm nhạc đồ sộ và một cuộc đời lao động nghệ thuật ghi dấu ấn khó phai trong lòng công chúng ở cả trong và ngoài nước.

Say mê âm nhạc

Nhạc sĩ Phạm Duy tên thật là Phạm Duy Cẩn, sinh ra trong một gia đình văn nhân tại Hà Nội. Cha ông là nhà văn Phạm Duy Tốn, tác giả truyện ngắn Sống chết mặc bay được coi là truyện ngắn đầu tiên của Việt Nam theo kiểu phương Tây. Anh trai ông là Phạm Duy Khiêm, một trí thức và văn sĩ hiếm hoi thành đạt rất sớm tại Pháp. Người anh này thực sự là chủ gia đình sau khi cha mất (ông Phạm Duy Tốn mất khi Duy Cẩn mới lên 3 tuổi).

Nhờ anh trai, cậu út được ăn học đầy đủ ngay khi còn bé. Cậu học hết tiểu học và được lên trung học, nhưng chưa bao giờ tỏ ra xuất sắc, ngược lại còn hay bị phạt vì những trò nghịch ngợm. Chỉ đến khi vào học lớp nhất trường Thăng Long, Phạm Duy mới học giỏi dần, trở thành một trong những học sinh ưu tú của lớp. Tuy chỉ học một năm nhưng ông cũng đã hấp thụ được nhiều cái hay cái đẹp của văn chương Pháp, đồng thời tiếp thu những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có âm nhạc dân tộc. Mặt khác, ở ông cũng bắt đầu bộc lộ thiên hướng thích biểu diễn, như diễn kịch, làm trò, đánh đàn. Ông biết chơi ghita, manđôlin và có giọng hát dịu dàng, êm ái, đượm buồn.

Mặc dù say mê âm nhạc, song Phạm Duy bị người anh cấm ngặt việc đàn hát. Muốn đánh đàn, chàng nhạc sĩ tương lai phải chờ khi anh trai đi vắng. Có lần, như về sau ông thuật lại, trò Cẩn đang cao hứng chơi manđôlin thì bị anh về bắt được. Người anh tức thì giật phắt cây đàn vứt xuống đất và cho em một trận đòn no...

Chỉ khi đến tuổi trưởng thành, Phạm Duy mới có được cuộc sống độc lập để theo đuổi niềm say mê của mình. Nhưng trước khi đến với âm nhạc, ông còn “loay hoay” với nhiều lựa chọn khác nữa, từ học hội họa ở Hà Nội đến theo các nghề như phụ gánh xiếc, sửa chữa radio, coi sóc trang trại... tại nhiều tỉnh, thành phố. Tuy nhiên ông sớm nhận ra những thứ ấy không hợp với mình và đã nhanh chóng từ bỏ. Dù sao, việc trải qua nhiều hoàn cảnh sống khác nhau ở nhiều nơi chốn cũng rất có ích cho việc tích lũy vốn sống và thói ưa tự do của Phạm Duy. Ông bắt đầu tự mày mò học nhạc cổ điển rồi tập sáng tác. Đây là một quá trình vô cùng quan trọng đối với nhạc sĩ, vì trong suốt cuộc đời mình, ông chưa từng học chính quy một trường lớp âm nhạc nào.

Nhạc sĩ Phạm Duy, chiều 30 Tết năm Ất Dậu (2005) ở Hà Nội Ảnh: Trần Chính Nghĩa
Nhạc sĩ Phạm Duy, chiều 30 Tết năm Ất Dậu (2005) ở Hà Nội
Ảnh: Trần Chính Nghĩa 

Nhạc sĩ đa tài

Năm 1941 đánh dấu thời điểm Phạm Duy chính thức đến với âm nhạc với tư cách là một ca sĩ. Giọng hát của ông không chỉ được công chúng đương thời yêu thích mà còn được báo chí đánh giá cao. Nhưng đấy mới chỉ là khởi đầu của một sự nghiệp âm nhạc đồ sộ rồi sẽ đưa Phạm Duy lên hàng những nhạc sĩ lớn nhất của Việt Nam.

Sinh năm 1921, đến với âm nhạc năm 20 tuổi, Phạm Duy là nhạc sĩ có thời gian hoạt động âm nhạc kéo dài suốt hơn 70 năm, cho đến tận không lâu trước lúc qua đời ở tuổi 92. Chỉ riêng sự nghiệp sáng tác, nhạc sĩ Phạm Duy đã viết đến hơn 2.000 ca khúc, nếu tính cả các bản do ông sáng tác hoặc viết lời. Trong đó có đến hàng chục ca khúc của các nhà soạn nhạc thế giới được ông đặt lời Việt rất thành công, như bản Dạ khúc của Schubert, Mơ mộng của Schumann...

Với bộ hồi ký bốn tập được đánh giá là hội đủ cả giá trị văn học và giá trị tư liệu, Phạm Duy còn là một nhà văn theo đúng nghĩa. Và đó cũng là lợi thế để ông thể hiện phần ca từ trong các sáng tác của mình cũng như đặt lời cho các bản nhạc nước ngoài với một sự biểu cảm rất cao.

Nhạc sĩ Phạm Duy cùng vợ mới cưới ở chiến khu Việt Bắc, năm 1949. Vợ ông, ca sĩ Thái Hằng, chính là người thể hiện nhiều tác phẩm của ông Ảnh: Trần Văn Lưu
Nhạc sĩ Phạm Duy cùng vợ mới cưới ở chiến khu Việt Bắc, năm 1949. Vợ ông, ca sĩ Thái Hằng, chính là người thể hiện nhiều tác phẩm của ông
Ảnh: Trần Văn Lưu 

Kết hợp nhạc cổ truyền và nhạc hàn lâm

Một điểm nổi bật trong các tác phẩm âm nhạc của Phạm Duy là có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa âm hưởng cổ truyền của nhạc Việt Nam với những yếu tố hàn lâm của nhạc phương Tây. Trong đó, tình yêu quê hương và tình cảm dân tộc được thể hiện tập trung nhất ở những thể loại âm nhạc mà ông tự đặt ra. Với thể loại “Tình tự dân tộc”, đó là bộ ba ca khúc mang những cái tên rất mộc mạc: Bà mẹ quê, Em bé quê, Vợ chồng quê. Với “Tình ca quê hương”, đó là các ca khúc Tình hoài hương Tình ca.

Khó có thể nói hết các giá trị trong những sáng tác đó của nhạc sĩ Phạm Duy. Ở đây xin được dừng lại với bản Tình ca, tác phẩm có ý nghĩa đặc biệt trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông. Có thể nói, Tình ca kết tụ tình yêu quê hương, đất nước của một người Việt Nam thông qua tình yêu tiếng Việt, tình yêu non sông và tình yêu con người Việt Nam. Tất cả được thể hiện bằng những ca từ rất gợi hình, gợi cảm, chạm đến trái tim của mỗi người bất kể là ai, miễn là mang dòng máu Việt: Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời (lời 1); Tôi yêu đất nước tôi, nằm phơi phới bên bờ biển xanh (lời 2); Tôi yêu bác nông phu, đội sương nắng bên bờ ruộng sâu (lời 3)...

Ra đời năm 1952, đến nay sau gần 70 năm nhạc phẩm Tình ca của Phạm Duy vẫn luôn được nhiều ban nhạc, ca sĩ thể hiện và được công chúng yêu thích. Hẳn không phải vô cớ, năm 2006 một hãng truyền thông đã bỏ ra tới 100 triệu đồng để được quyền sử dụng 10 nốt nhạc đầu của bản nhạc này làm nhạc hiệu...

Văn hóa

Tác giả tại bờ bắc bến sông Thạch Hãn - Nơi từng diễn ra các đợt trao trả tù binh chiến tranh theo một điều khoản Hiệp định Paris 1973
Văn hóa - Thể thao

Thạch Hãn chảy mãi khúc khải hoàn ca

Tròn nửa thế kỷ trôi qua kể từ ngày đất nước trọn niềm vui, Bắc - Nam sum họp một nhà trong hòa bình, thống nhất; những ngày tháng ấy, hàng triệu người con đất Việt mừng vui, vất vả ngược xuôi vượt sông Thạch Hãn để vào Nam hay ra Bắc, tìm lại người thân yêu sau bao năm dài chiến tranh, ly tán. Làm sao quên dòng sông ấy từng là giới tuyến, gánh vác sơn hà, xã tắc trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc cho đến ngày đại thắng mùa Xuân năm 1975, non sông thu về một mối.

GS.TS PHẠM HỒNG TUNG (Đại học Quốc gia Hà Nội)
Văn hóa - Thể thao

Tinh thần, cốt cách của người Việt Nam

Theo GS.TS. PHẠM HỒNG TUNG (Đại học Quốc gia Hà Nội), thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một thành quả vĩ đại của cách mạng Việt Nam, khẳng định ý chí thống nhất đất nước không gì lay chuyển, khát vọng hòa bình cháy bỏng của Nhân dân Việt Nam, được hun đúc bởi truyền thống chống ngoại xâm từ trong lịch sử đến ngày nay.

Cao cả đức hy sinh - Mạch nguồn dựng xây đất nước
Văn hóa - Thể thao

Cao cả đức hy sinh - Mạch nguồn dựng xây đất nước

Đại thắng mùa Xuân 1975 đã khắc ghi những trang sử hào hùng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Tinh thần hy sinh cao cả ấy - vì nước quên thân, vì dân quên mình - đã trở thành mạch nguồn bất tận, hun đúc niềm tin và khát vọng vươn mình của dân tộc ta. Hôm nay, trong hào khí tháng Tư lịch sử, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang tiếp nối mạch nguồn ấy bằng cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước - dám hy sinh lợi ích cá nhân vì một Việt Nam phồn vinh và thịnh vượng.

"Binh chủng đặc biệt" lay động cả non sông
Văn hóa - Thể thao

"Binh chủng đặc biệt" lay động cả non sông

Trên thế giới, hiếm có dân tộc nào sở hữu thứ "vũ khí" bảo vệ Tổ quốc độc đáo như vậy. "Vũ khí" ấy không phải gươm giáo, đạn bom, mà là những vần thơ thấm đẫm máu và hoa, là khúc ca hùng tráng át tiếng bom đạn, là thước phim lay động trái tim, là nét vẽ kiên cường trên trang giấy… Tất cả đã tạo nên sức mạnh tinh thần phi thường, đủ sức lấn át mọi vũ khí, hun đúc ý chí, tôi luyện quyết tâm đánh thắng kẻ thù, giành lại tự do cho Tổ quốc.

Trải qua chiến tranh càng thấy giá trị của hòa bình
Văn hóa - Thể thao

Trải qua chiến tranh càng thấy giá trị của hòa bình

Trưa ngày 30.4.1975, quân ta tiến vào Sài Gòn, chiếm Dinh Độc Lập. Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh lên đài phát thanh Sài Gòn tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. “Khi Đài Tiếng nói Việt Nam vừa đưa dứt thông tin đó, chúng tôi nhảy cẫng lên ôm chầm lấy nhau, nước mắt lưng tròng. Đó là những giọt nước mắt của hạnh phúc”...

Vòng tay lớn mãi để nối sơn hà...
Văn hóa - Thể thao

Vòng tay lớn mãi để nối sơn hà...

Thời gian có làm phai mờ dấu vết chiến tranh nhưng ký ức hào hùng vẫn in đậm trong trí nhớ những người có mặt trong thời khắc lịch sử 50 năm trước. Nhắc nhớ câu chuyện ấy tiếp thêm ngọn lửa truyền cảm hứng, biến niềm tin và tự hào thành động lực dựng xây Tổ quốc hôm nay.

“Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” - Khát vọng và niềm tin
Văn hóa - Thể thao

“Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” - Khát vọng và niềm tin

Bộ phim “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” chứa đựng bề dày lịch sử đất nước và con người Việt Nam một thời; số phận của các nhân vật mang chiều rộng về không gian, chiều dài về thời gian, gắn bó với số phận của dân tộc trong mọi biến cố lớn lao tại nơi giới tuyến chia cắt hai miền Nam - Bắc đầy khốc liệt.

50 năm thống nhất đất nước, vẹn nguyên ký ức ngày giải phóng
Văn hóa

Vẹn nguyên ký ức ngày giải phóng

50 năm đã trôi qua nhưng ký ức về ngày nối non sông liền một dải vẫn vẹn nguyên trong tâm trí những người đã chiến đấu vì đất nước, trong đó có Đại tá Trương Quang Siều, nguyên Phó Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.

Chính thức ra mắt sách “Con đường tương lai”
Văn hóa

Chính thức ra mắt sách “Con đường tương lai”

Ngày 29.4, tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, Hội Nhà văn Hà Nội phối hợp với Viện Khoa học Giáo dục và Môi trường cùng một số doanh nghiệp tổ chức lễ ra mắt cuốn sách “Con đường tương lai” - Tập 1 của nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn.

Nhân dân Sài Gòn - Gia Định kéo về Dinh Độc Lập chào mừng Quân giải phóng
Văn hóa - Thể thao

Nghệ thuật tạo và chớp thời cơ

Nghệ thuật tạo thời cơ, chớp thời cơ là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975; thay vì 2 năm như kế hoạch đã đề ra, chúng ta chỉ mất 55 ngày đêm thu non sông về một mối.

Ký họa sống động những ngày tiến về Sài Gòn
Văn hóa - Thể thao

Ký họa sống động những ngày tiến về Sài Gòn

Chứng kiến sự gian khổ của bộ đội ta trong những ngày kháng chiến và cả niềm hân hoan của ngày thống nhất, ông Trần Mạnh Tuấn, một họa sĩ không chuyên, nguyên phóng viên báo Pháp luật Việt Nam, đã thực hiện các bức ký họa bằng bút sắt sinh động ghi lại lịch sử không thể nào quên của dân tộc.

“Cho con là người Việt Nam” - Khi âm nhạc cất lên niềm tự hào dân tộc
Văn hóa

“Cho con là người Việt Nam” - Khi âm nhạc cất lên niềm tự hào dân tộc

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30.4.1975 - 30.4.2025) và 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2.9.1945 - 2.9.2025), MV "Cho con là người Việt Nam" của Tùng Dương chính thức được ra mắt như một lời tri ân sâu sắc tới lịch sử hào hùng của dân tộc và gửi gắm khát vọng vươn lên của thế hệ trẻ Việt Nam.