Theo quy định của Hiến pháp hiện hành, Chủ tịch Nước là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Nhà nước, đại diện chính thức cho Nhà nước và quốc gia trong các quan hệ đối nội và đối ngoại. Chủ tịch Nước do QH bầu ra trong số các ĐBQH nên phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước QH. Nhiệm kỳ của Chủ tịch Nước theo nhiệm kỳ của QH, Chủ tịch Nước có thể bị QH bỏ phiếu bất tín nhiệm, bãi nhiệm, miễn nhiệm. Chủ tịch Nước được Hiến pháp quy định một số quyền trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp, tổ chức bộ máy nhà nước, quốc phòng và an ninh, song đó chủ yếu là những quyền có tính chất đại diện cho Nhà nước, có vai trò chính thức hóa về mặt nhà nước một số hoạt động nhất định. Chẳng hạn, trong lĩnh vực lập pháp, Chủ tịch Nước có quyền trình dự án luật ra trước QH, tham gia thảo luận để thông qua luật và có nghĩa vụ công bố Hiến pháp, luật sau khi QH đã thông qua, nhưng không có quyền phủ quyết luật của QH.
Trong lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước, Chủ tịch Nước có quyền đề nghị QH bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm Phó chủ tịch Nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào Nghị quyết của QH bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó chánh án, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Phó viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trong lĩnh vực hành pháp, Chủ tịch Nước có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ khi xét thấy cần thiết, cả Chính phủ lẫn Thủ tướng Chính phủ đều phải báo cáo công tác với Chủ tịch Nước. Tuy nhiên, Thủ tướng Chính phủ mới là người trực tiếp lãnh đạo, điều hành các hoạt động của Chính phủ, chủ tọa các phiên họp của Chính phủ, chứ không phải Chủ tịch Nước.
Trong lĩnh vực tư pháp, ngoài quyền đề nghị bầu và trực tiếp bổ nhiệm một số chức vụ của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Nước còn có quyền căn cứ vào Nghị quyết của QH để công bố quyết định đại xá và có thể trực tiếp ra quyết định đặc xá.
Trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh, Chủ tịch Nước thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh. Chủ tịch Nước có quyền đề nghị danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh trình QH phê chuẩn; có thể căn cứ vào nghị quyết của UBTVQH, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp UBTVQH không thể họp được, Chủ tịch Nước có thể ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương. Chủ tịch Nước có quyền quyết định phong hàm, cấp sỹ quan cấp cao trong các lực lượng vũ trang nhân dân.
Trong lĩnh vực đối ngoại, ngoài quyền thay mặt nước ta trong quan hệ đối ngoại, Chủ tịch Nước có quyền cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm phán, ký kết điều nước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; trình QH phê chuẩn điều ước quốc tế đã trực tiếp ký; quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình QH quyết định; có quyền quyết định phong hàm, cấp đại sứ.
Ngoài ra, Chủ tịch Nước có nghĩa vụ công bố pháp lệnh của UBTVQH, đồng thời có quyền đề nghị UBTVQH xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày pháp lệnh được thông qua; nếu pháp lệnh đó vẫn được UBTVQH biểu quyết tán thành mà Chủ tịch Nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch Nước có quyền trình QH quyết định tại kỳ họp gần nhất. Chủ tịch Nước cũng có quyền tham dự các phiên họp của UBTVQH, có quyền quyết định phong hàm, cấp nhà nước trong các lĩnh vực khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, giải thưởng nhà nước và danh hiệu vinh dự nhà nước. Chủ tịch Nước có quyền ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trong thời gian QH không họp thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải báo cáo công tác trước Chủ tịch Nước.
Thông qua việc xem xét khái quát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Nước theo quy định của Hiến pháp hiện hành, có thể thấy, với tư cách là nguyên thủ quốc gia, Chủ tịch Nước không chỉ thực hiện nhiều hoạt động có tính chất đại diện cho Nhà nước, quốc gia trong các quan hệ đối nội, đối ngoại, có vai trò chính thức hóa về mặt nhà nước một số hoạt động của QH, UBTVQH mà còn thực hiện nhiều hoạt động có tính chất độc lập thuộc thẩm quyền của thiết chế này. Chủ tịch Nước giữ vai trò quan trọng trong mối liên hệ phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế như hiện nay, những quy định về thiết chế này trong Hiến pháp mới nên được tiếp tục sửa đổi cho phù hợp hơn.
Khi Hiến pháp năm 1992 được ban hành, thiết chế Chủ tịch Nước là cá nhân được xác lập trở lại để thay thế cho thiết chế Chủ tịch Nước là tập thể được quy định trong Hiến pháp năm 1980. Đây là cải cách tất yếu và cần phải có để bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phù hợp với điều kiện của đất nước và xu thế của thời đại. Bởi ở phần lớn các quốc gia đương đại, bộ máy nhà nước thường có một nhân vật trung tâm của quyền lực nhà nước, có ảnh hưởng tới nhà nước lớn đến mức hễ nói đến nhà nước đó là người ta nhắc ngay đến nhân vật này. Chẳng hạn, nói đến nước Mỹ, Pháp, Nga... là người ta nhắc ngay đến Tổng thống của họ; nói đến các nước Anh, Nhật, Đức, Italia... là người ta nhắc đến Thủ tướng. Như vậy, nhân vật trung tâm của bộ máy nhà nước, trung tâm của quyền lực nhà nước ở phần lớn các quốc gia đương đại có thể là nguyên thủ quốc gia hoặc thủ tướng chính phủ. Người này là linh hồn, là trung tâm quyết sách của chính phủ, có quyền lựa chọn nhân sự và phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của chính phủ. Tôi cho rằng, theo tập tục và truyền thống phương Đông thì ở nước ta hiện nay, người này nên là Chủ tịch Nước. Chúng ta đề cao vai trò của quần chúng nhân dân nhưng cũng không thể phủ nhận vai trò của cá nhân trong lịch sử. Thực tế đã chứng minh nếu nguyên thủ quốc gia là một người tài đức và có thực quyền trong lĩnh vực hành pháp thì có thể dẫn dắt quốc gia vững bước trên con đường phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những ví dụ điển hình.
Tuy nhiên, theo quy định của Hiến pháp hiện hành, Chủ tịch Nước chỉ đứng đầu Nhà nước mà không phải là thành viên của Chính phủ nên quyền lực của Chủ tịch Nước trong lĩnh vực hành pháp còn khá khiêm tốn. Thiết nghĩ, Hiến pháp hiện hành nên được sửa đổi theo hướng tăng thêm hơn quyền lực cho Chủ tịch Nước trong lĩnh vực hành pháp, nhất là những vấn đề liên quan đến nhân sự và chỉ đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ. Nên chăng khi sửa đổi Hiến pháp hiện hành có thể kế thừa quy định về vị trí và quyền lực của Chủ tịch Nước được quy định trong Hiến pháp năm 1946: Chủ tịch Nước là nguyên thủ quốc gia, đại diện chính thức cho Nhà nước và quốc gia trong các quan hệ đối nội, đối ngoại, đồng thời là Chủ tọa Hội đồng Bộ trưởng, người trực tiếp chỉ đạo, điều hành và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Chính phủ.
Hiện nay ở nước ta, Chủ tịch Nước có quyền đề nghị QH bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó chủ tịch Nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào Nghị quyết của QH bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ. Song theo tôi, Hiến pháp nên quy định cho Chủ tịch Nước có quyền đề cử và với sự phê chuẩn của QH, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thủ tướng, Phó thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ. Chủ tịch Nước vừa là người đứng đầu Nhà nước vừa là thành viên của Chính phủ và có tác động trực tiếp đến bộ máy hành pháp. Chủ tịch Nước sẽ chủ trì việc hoạch định các chủ trương, chính sách của Chính phủ và sẽ là trung tâm quyết sách của Chính phủ. Nếu quy định như trên thì vai trò, vị trí và quyền lực của Chủ tịch Nước sẽ tương tự như quyền lực của Chủ tịch Nước được quy định trong Hiến pháp năm 1946 hoặc tương tự như quyền lực của Tổng thống trong các nước có chính thể cộng hòa hỗn hợp (nước Nga, Pháp) hiện nay. Muốn cho quyền lực của Chủ tịch Nước được tăng cường theo hướng này thì quy định về cách thức hình thành chức vụ Chủ tịch Nước có thể được thay đổi theo hướng Chủ tịch Nước là do nhân dân trực tiếp bầu ra, như thế, quyền lực của Chủ tịch Nước nhận được từ nhân dân, do nhân dân ủy quyền nên có thực quyền và có thể độc lập với QH ở một mức độ nhất định. Tuy nhiên, Chủ tịch Nước cũng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và chịu sự giám sát của QH trong những trường hợp nhất định.
Với điều kiện Đảng lãnh đạo như ở nước ta hiện nay, nên chăng có thể quay lại thực tế lịch sử của đất nước trước đây và cũng là thực tế của Trung Quốc hiện nay: nguyên thủ quốc gia sẽ đồng thời là Tổng bí thư hoặc Chủ tịch Đảng. Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa là Chủ tịch Nước vừa là Chủ tịch Đảng.
Trong xu thế hiện nay và nhằm đáp ứng mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền, sự phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan nhà nước cần phải rạch ròi hơn, sự giám sát và kiểm soát quyền lực nhà nước cũng cần được tăng cường, thiết nghĩ, Hiến pháp nên quy định cho Chủ tịch Nước quyền yêu cầu QH thảo luận lại hoặc xem xét lại một dự luật mà QH đã thông qua trong một thời gian nhất định và quyền này không thể bị từ chối. Nếu ở lần thảo luận lại này mà QH vẫn thông qua với ít nhất 2/3 tổng số phiếu tán thành thì Chủ tịch Nước phải công bố. Quy định như vậy sẽ vừa làm tăng trách nhiệm, sự cẩn trọng của QH trong việc làm luật vừa làm cho quy trình làm luật cẩn thận, kỹ càng và chắc chắn hơn, qua đó vừa nâng cao sự ổn định của luật vừa tăng cường được ảnh hưởng, sự quan tâm và trách nhiệm của Chủ tịch Nước với việc làm luật của QH và bảo đảm sự giám sát lẫn nhau trong hoạt động giữa các cơ quan nhà nước.
Nếu Hiến pháp mới quyết định thành lập cơ quan bảo hiến thì cũng nên trao cho Chủ tịch Nước quyền tham gia tích cực vào việc thành lập cơ quan này theo hướng cho phép Chủ tịch Nước có quyền đề cử các thành viên của cơ quan bảo hiến để QH phê chuẩn. Ngoài ra, Hiến pháp cũng nên quy định rõ không ai có thể làm Chủ tịch Nước quá hai nhiệm kỳ. Như vậy vừa có thể huy động được nhiều nhân tài phục vụ cho đất nước vừa có thể tránh được tình trạng chuyên quyền, trì trệ khi quyền lực nằm quá lâu trong tay một người, vừa có thể mang lại sự đổi mới trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước cũng như bước phát triển mới cho đất nước.
Các quyền hạn khác của Chủ tịch Nước với tư cách là nguyên thủ quốc gia được quy định trong Hiến pháp hiện hành, theo truyền thống của Việt Nam và theo thông lệ quốc tế, thì Hiến pháp mới hoàn toàn vẫn có thể tiếp tục kế thừa.