QH và chế định mới trong Hiến pháp 1980

Điều 82, Hiến pháp 1980 quy định: “QH là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. QH do cử tri cả nước bầu ra, theo nguyên tắc: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Nhiệm kỳ của mỗi khóa QH là 5 năm.

Cơ cấu tổ chức của QH nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong Hiến pháp năm 1980 đã có những quy định đầy đủ hơn về vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của QH nói riêng và các cơ quan dân cử nói chung. Nếu theo Hiến pháp 1959, UBTVQH là cơ quan thường trực của QH thì theo Hiến pháp 1980, cơ quan thường trực của QH là Hội đồng Nhà nước. Mặt khác, theo Hiến pháp 1980, Hội đồng Nhà nước còn là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Và nếu theo Hiến pháp 1959, khi QH họp thì bầu Chủ tịch đoàn để điều khiển phiên họp thì đến Hiến pháp 1980, QH bầu ra Chủ tịch và các Phó chủ tịch QH. Chủ tịch và các Phó chủ tịch QH chủ tọa các phiên họp của QH. Như vậy, Chủ tịch QH, Phó chủ tịch QH là một thiết chế mới trong Hiến pháp 1980 so với Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của QH theo Hiến pháp 1980 về cơ bản không thay đổi so với Hiến pháp 1959, tiếp tục khẳng định vị trí tối cao của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.

Hiến pháp 1980 sau khi quy định những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của QH, Hiến pháp còn cho phép “Quốc hội có thể định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết”. Như vậy, với quy định trên thì có thể hiểu nhiệm vụ và quyền hạn của QH là không hạn chế.

Theo tinh thần của Hiến pháp 1980, QH nước ta thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ các cơ quan trong bộ máy nhà nước.

Trong Hiến pháp năm 1980, một chế định mới được thiết lập, đó là Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa  Việt Nam. Điều 98, Hiến pháp 1980 quy định: “Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của QH, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, Hội đồng Nhà nước vừa thực hiện chức năng của UBTVQH, vừa thực hiện chức năng của Chủ tịch Nước. Theo đó, thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước tương đương với thẩm quyền của UBTVQH cộng với thẩm quyền của Chủ tịch Nước trong Hiến pháp 1959.

Quy định của Hiến pháp 1980 cho thấy, quyền hạn của Hội đồng Nhà nước là rất lớn (quy định cụ thể tại Điều 89, 100 của Hiến pháp 1980). Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của QH. Hội đồng Nhà nước thực hiện những nhiệm vụ và sử dụng những quyền hạn được Hiến pháp, các luật và nghị quyết của QH giao cho, quyết định những vấn đề quan trọng về xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; giám sát việc thi hành Hiến pháp, các luật, pháp lệnh, nghị quyết của QH và của Hội đồng Nhà nước, giám sát hoạt động của bộ  máy nhà nước.

Chế định nguyên thủ quốc gia (Chủ tịch Nước) là cá nhân trong Hiến pháp 1959 đã trở thành nguyên thủ quốc gia tập thể dưới hình thức Hội đồng Nhà nước trong Hiến pháp 1980. Hội đồng Nhà nước là Chủ tịch Nước tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là mô hình tổ chức nguyên thủ quốc gia chung của các nhà nước xã hội chủ nghĩa mà ở đó nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa được vận dụng đậm nét. Vào thời điểm chúng ta xây dựng Hiến pháp 1980, nhiều nước xã hội chủ nghĩa cũng có hình thức Chủ tịch Nước tập thể, tuy có sự khác nhau về tên gọi. Ví dụ: Ba Lan, Bulgaria, Rumania... gọi là Hội đồng Nhà nước; Hungary gọi là Hội đồng Chủ tịch nước; Liên Xô gọi là Đoàn Chủ tịch Xô-viết tối cao; Albani gọi là Đoàn Chủ tịch Quốc hội...

Thể chế Chủ tịch Nước tập thể, trong thực tế đã thể hiện những ưu điểm và nhược điểm nhất định của nó.

Ưu điểm của thể chế này là các vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Nước đều được thảo luận, bàn bạc tập thể và quyết định theo đa số. Vì vậy, các quyết định thường chính xác và khách quan hơn một người quyết định. Chế độ nguyên thủ tập thể có sự phối kết hợp giữa Hội đồng Nhà nước với QH. Nhược điểm của thể chế này là do mọi vấn đề đều phải bàn bạc tập thể để đi đến sự thống nhất nên phải mất nhiều thời gian mới có quyết định cuối cùng - dẫn đến công việc thực hiện chậm chạp. Mặt khác, trách nhiệm và quyền hạn của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước quy định cũng chưa thật rõ ràng trong Hiến pháp. Hội đồng Nhà nước thông qua Chủ tịch Hội đồng thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại (Điều 98, Hiến pháp 1980). Như vậy, quyền hạn của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước theo Hiến pháp 1980 hẹp hơn nhiều so với Chủ tịch Nước trong Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Hiến pháp 1980 cũng không “cá thể hóa” trách nhiệm của các thành viên Hội đồng Nhà nước. Do quy định của Hiến pháp về chức năng Chủ tịch tập thể của Hội đồng Nhà nước, cho nên nhiều khi không thể hiện rõ vai trò của nguyên thủ quốc gia.

Theo Hiến pháp 1980, mối quan hệ giữa Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất với Hội đồng Nhà nước thể hiện ở một số điểm cơ bản. Đó là: Hội đồng Nhà nước là cơ quan hoạt động thường xuyên của QH, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước QH (Điều 98); QH quy định tổ chức của Hội đồng Nhà nước, bầu và bãi miễn các Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng Nhà nước (Điều 83, các khoản 6,7); QH xem xét báo cáo công tác của Hội đồng Nhà nước (Điều 83, khoản 9). Ngoài những nhiệm vụ và quyền hạn được Hiến pháp quy định, Hội đồng Nhà nước còn thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định trong các luật và nghị quyết của QH ( Điều 98).

Trong Hiến pháp 1980, các cơ quan khác của QH bao gồm Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban thường trực của QH.

Hội đồng Dân tộc do QH bầu ra và chịu trách nhiệm trước QH, trong thời gian QH không họp thì chịu trách nhiệm trước Hội đồng Nhà nước. Hội đồng Dân tộc có nhiệm vụ nghiên cứu và kiến nghị với QH, Hội đồng Nhà nước những vấn đề có liên quan đến chính sách dân tộc; giúp QH và Hội đồng Nhà nước giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc của nhà nước.  Cơ  cấu của Hội đồng Dân tộc bao gồm Chủ tịch, các Phó chủ tịch và các ủy viên. Chủ tịch Hội đồng Dân tộc có quyền tham dự các phiên họp của Hội đồng Nhà nước.

Các Ủy ban thường trực của QH do QH bầu ra và chịu trách nhiệm trước QH, trong thời gian QH không họp thì chịu trách nhiệm trước Hội đồng Nhà nước. Ủy ban thường trực của QH có Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các ủy viên. Ủy ban thường trực của QH có nhiệm vụ nghiên cứu, thẩm tra những dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác hoặc những báo cáo mà QH và Hội đồng Nhà nước giao cho; kiến nghị với QH và Hội đồng Nhà nước những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của ủy ban; giúp QH và Hội đồng Nhà nước thực hiện quyền giám sát. Hiến pháp 1980 cũng quy định, khi xét thấy cần thiết, QH và Hội đồng Nhà nước có thể thành lập các ủy ban lâm thời để thực hiện những công việc nhất định.

Sự tồn tại của Hiến pháp 1980 gắn liền với tổ chức và hoạt động của Quốc hội Khóa VII và Khóa VIII.

Cuộc bầu cử ĐBQH Khóa VII diễn ra vào ngày 26 tháng 4 năm 1981 với tổng số 496 ĐBQH. QH Khóa VII đã bầu ra Chủ tịch QH và 9 Phó Chủ tịch QH. Về cơ cấu tổ chức Hội đồng Nhà nước của QH Khóa VII, có: Chủ tịch, 4 Phó Chủ tịch, 1 Tổng thư ký và 7 ủy viên. QH Khóa VII đã bầu ra Hội đồng Dân tộc và 7 Ủy ban của Quốc hội; bầu ra Đoàn thư ký kỳ họp của QH gồm 8  người.

Cuộc bầu cử ĐBQH Khóa VIII được tiến hành vào ngày 19 tháng 4 năm 1987 với tổng số 496 ĐBQH. QH Khóa VIII đã bầu ra Chủ tịch và 5 Phó chủ tịch QH. Cơ cấu tổ chức Hội đồng Nhà nước của QH Khóa VIII có: Chủ tịch, 4 Phó chủ tịch, 1 Tổng thư ký và 7 ủy viên. QH Khóa VIII đã bầu ra Hội đồng Dân tộc và 7 Ủy ban của QH. Đoàn thư ký kỳ họp QH  có 8 người.

Ở QH Khóa VII và Khóa VIII, tỷ lệ các thành phần xã hội trong cơ cấu ĐBQH không có những thay đổi lớn so với các Khóa QH trước đó. Tuy nhiên, do Hiến pháp đã được sửa đổi theo hướng kết hợp chế độ tập thể nguyên thủ quốc gia (Hội đồng Nhà nước) với chế độ của thường trực cao nhất giữa hai kỳ họp QH; đồng thời tách chế định Chủ tịch, các Phó chủ tịch QH thành một loại cơ quan độc lập. Vì vậy, so với UBTVQH các khóa trước đây (theo Hiến pháp 1959), thì cơ cấu, số lượng thành viên Hội đồng Nhà nước đã giảm đi. Nhưng, số lượng các Phó chủ tịch QH tăng lên.

Cơ cấu tổ chức của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của QH, tuy  không có thay đổi nhiều so với trước đây, nhưng ở một số Ủy ban, số lượng các thành viên đã tăng lên đáng kể. Việc thiết kế mô hình  và cơ cấu tổ chức  các cơ quan của QH theo Hiến pháp 1980 là một bước cải tiến, nhằm mục đích áp dụng chế độ tập thể trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Đây là một hướng đi rất phù hợp với điều kiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, qua thực tiễn bố trí nhân sự và cơ chế vận hành, cơ chế này đã bộc lộ nhiều  nhược điểm, không đáp ứng kịp thời những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đó cũng là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc sửa đổi, bổ sung nhiều chế định liên quan đến bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 1992 sau này.

Xét trên phương diện tổ chức và phương thức hoạt động, thì nguyên nhân làm hạn chế đến hiệu lực và hiệu quả hoạt động của QH các khóa theo Hiến pháp 1980 là do tổ chức của QH chưa phù hợp và chưa đủ mạnh. Cơ cấu tổ chức của QH chưa hợp lý. Hầu hết các ĐBQH đều hoạt động kiêm nhiệm, nên ít có thời gian dành cho hoạt động của QH. Các cơ quan của QH còn thiếu nhiều thành viên làm việc chuyên trách. Cơ cấu tổ chức các cơ quan của QH còn nặng về đại diện thành phần cho các tổ chức, các lĩnh vực và mang tính mặt trận. Cơ chế và phương thức thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của QH, các cơ quan của QH và các ĐBQH chưa được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật. Sự nghèo nàn, thiếu thốn và lạc hậu về các điều kiện, phương tiện vật chất, kỹ thuật, đặc biệt là chế độ thông tin, cũng là những nguyên nhân hạn chế hiệu quả hoạt động của QH nói chung.

Luật trong cuộc sống

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh
Quốc hội và Cử tri

Quy trình mới có thể rút ngắn thời gian ban hành luật từ 22 tháng xuống còn 10 tháng

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 đã tách bạch quy trình chính sách với việc lập Chương trình lập pháp hàng năm, phân định rõ hơn quy trình xây dựng chính sách và quy trình soạn thảo. Với tinh thần đó, đối với các luật, pháp lệnh cần thực hiện quy trình chính sách sẽ gồm 4 bước cơ bản. Trên cơ sở chính sách được thông qua sẽ tiến hành soạn thảo theo quy trình 7 bước, trong đó đơn giản một số thủ tục hoặc một số loại hồ sơ, tài liệu. Quy trình này có thể rút ngắn thời gian ban hành luật từ 22 tháng xuống còn 10 tháng.

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các nghị định hướng dẫn
Luật trong cuộc sống

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các nghị định hướng dẫn

Theo Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật (Bộ Tư pháp), trong chương trình làm việc Kỳ họp bất thường lần thứ Chín, Quốc hội sẽ xem xét, biểu quyết thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi). Để bảo đảm tính thống nhất và khả thi, Bộ Tư pháp đang gấp rút hoàn thiện ba nghị định hướng dẫn thi hành Luật.

Lòng dân hóa thân vào quyết sách của Quốc hội
Quốc hội và Cử tri

Lòng dân hóa thân vào quyết sách của Quốc hội

ThS.Nguyễn Vân Hậu

Trong nhiều quốc kế dân sinh được quyết nghị tại Kỳ họp thứ Tám, các chính sách về bảo hiểm y tế (BHYT), bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân, quan tâm đến người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn... đã khẳng định bản chất ưu việt của chế độ ta luôn đặt lên hàng đầu mục tiêu bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Các quyết sách được lòng dân của Quốc hội chính là sự hóa thân của lòng dân, của ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của Nhân dân, là thước đo giá trị của nền dân chủ trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Đức Tâm
Luật trong cuộc sống

Nâng quy mô vốn đầu tư công của dự án quan trọng quốc gia từ 30.000 tỷ đồng trở lên

Luật Đầu tư công năm 2024 đã nâng quy mô vốn đầu tư công của dự án quan trọng quốc gia từ 30.000 tỷ đồng trở lên; quy mô của dự án nhóm A, nhóm B và nhóm C với quy mô gấp 2 lần so với các quy định hiện hành. Phân cấp thẩm quyền cho người đứng đầu bộ, cơ quan trung ương quyết định chủ trương đầu tư dự án nhóm A do cơ quan, tổ chức mình quản lý với quy mô vốn dưới 10.000 tỷ đồng.

Ảnh minh họa
Luật trong cuộc sống

Đơn giản hóa thủ tục hành chính ngay từ khâu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Đây là một trong những nội dung nêu trong Công điện số 131/CĐ-TTg về việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm phiền hà, chi phí tuân thủ cho người dân, doanh nghiệp ngay từ khâu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký ban hành ngày 11.12 vừa qua.

Bảo đảm sử dụng đất công bằng, công khai, hiệu quả
Luật trong cuộc sống

Bảo đảm sử dụng đất công bằng, công khai, hiệu quả

Tạo hành lang pháp lý an toàn, đầy đủ, thuận lợi, ổn định, khả thi cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống người dân, nhất là các quy định chuyển tiếp, bảo đảm điều kiện tiếp cận, sử dụng đất và nguồn lực khác công bằng, công khai, hiệu quả. Đây là một trong những nội dung quyết nghị của Quốc hội nêu trong Nghị quyết về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội.

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị giải trình làm rõ những vấn đề Đoàn giám sát nêu
Luật trong cuộc sống

Tiếp tục sửa đổi các luật liên quan để gỡ khó cho thị trường bất động sản

Sau khi làm việc với 12 tỉnh, thành phố, 8 bộ, ngành, Đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm 2023” đã có cuộc làm việc với Chính phủ vào chiều 13.9.

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị
Luật trong cuộc sống

Cần cơ chế phù hợp, xử lý dứt điểm các dự án đang đình trệ

Cơ chế giải quyết phù hợp, xử lý dứt điểm đối với các dự án bất động sản gặp khó khăn, vướng mắc pháp lý, đình trệ do triển khai thực hiện, nhiều dự án kéo dài, pháp luật qua các thời kỳ có nhiều thay đổi. Đây là vấn đề được các thành viên Đoàn giám sát của Quốc hội, đại diện các bộ, ngành tập trung phân tích tại cuộc làm việc với Chính phủ về quản lý thị trường bất động sản, phát triển nhà ở xã hội.

Tài liệu của HĐND, UBND cấp xã phải nộp vào lưu trữ lịch sử
Luật trong cuộc sống

Tài liệu của HĐND, UBND cấp xã phải nộp vào lưu trữ lịch sử

Tại họp báo công bố Lệnh của Chủ tịch Nước về các luật được thông qua tại Kỳ họp thứ Bảy, Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước Đặng Thanh Tùng nêu rõ, tài liệu của HĐND, UBND cấp xã phải nộp vào lưu trữ lịch sử. Quy định này xuất phát từ thực tế khối lượng hồ sơ, tài liệu được lưu trữ tại cấp xã rất lớn, trong khi đó, nguồn lực về con người, cơ sở vật chất dành cho công tác này rất hạn chế, dẫn đến việc lưu trữ tại nhiều địa phương không bảo đảm.

Tác động tích cực đến thị trường bất động sản
Luật trong cuộc sống

Tác động tích cực đến thị trường bất động sản

Theo Luật sư HOÀNG TUẤN VŨ, Công ty Luật TNHH Tuệ Anh, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội, Luật Đất đai năm 2024 có nhiều quy định thiết thực, hợp lý, chắc chắn khi có hiệu lực thi hành sẽ tác động đáng kể đến thị trường bất động sản, đáp ứng mong đợi của chính quyền, doanh nghiệp và người dân.

Quy định chuyển tiếp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất
Luật trong cuộc sống

Quy định chuyển tiếp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất

Luật Đất đai (sửa đổi) được Quốc hội Khóa XV thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ Năm được xem là bước tiến lớn trong việc hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý và sử dụng đất đồng bộ; đồng thời, khắc phục tình trạng lãng phí, hoang hóa, ô nhiễm, suy thoái và những tồn tại, vướng mắc về quản lý và sử dụng đất do lịch sử để lại. Đặc biệt, khi Luật có hiệu lực, những quy định chuyển tiếp vẫn bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho người sử dụng đất theo hướng có lợi nhất.

Bảo đảm quyền lợi hơn cho người dân có đất bị thu hồi
Luật trong cuộc sống

Bảo đảm quyền lợi hơn cho người dân có đất bị thu hồi

Luật Đất đai (sửa đổi) được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ Năm, Quốc hội Khóa XV được xem là đạo luật quan trọng, bởi với nhiều điểm mới, Luật sẽ tác động và ảnh hưởng đến hầu hết mọi mặt của đời sống xã hội, nhất là việc bảo đảm quyền lợi hơn cho người dân có đất bị thu hồi. Theo đó, kỳ vọng khi Luật chính thức có hiệu lực và đi vào cuộc sống, cả người dân, doanh nghiệp, các tổ chức khác và Nhà nước đều được hưởng lợi.

Giảm tỷ lệ cổ phần của cổ đông lớn có giảm tỷ lệ sở hữu chéo ngân hàng không?
Luật trong cuộc sống

Giảm tỷ lệ cổ phần của cổ đông lớn có giảm tỷ lệ sở hữu chéo ngân hàng không?

Để ngăn chặn tình trạng sở hữu chéo, gây nhiều hệ lụy cho hệ thống ngân hàng, dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) cần tiếp tục hoàn thiện nhiều nội dung. Trong đó, có các quy định về những cá nhân, tổ chức là cổ đông của ngân hàng; công bố thông tin; quản trị ngân hàng; cơ chế thanh tra, giám sát…