Phân loại tội phạm trong Dự thảo<br>Bộ luật Hình sự (sửa đổi)

Việc phân loại tội phạm như Điều 9 Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) là có cơ sở khoa học, kế thừa nội dung của Bộ luật Hình sự năm 1999, phù hợp với thực tiễn áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, hình thức và nội dung quy định trong điều luật còn mâu thuẫn, không phù hợp, sẽ gây khó khăn cho thực tiễn áp dụng pháp luật.

Bảo đảm thống nhất trong trình tự xây dựng các điều luật

Về hình thức xây dựng quy phạm pháp luật, Điều luật có hai dòng đầu quy định những căn cứ phân loại tội phạm và xác định tội phạm được phân ra thành 4 loại, sau đó quy định các số thứ tự 1, 2, 3, 4 cho từng loại tội phạm. Như vậy, các số thứ tự được hiểu là các khoản, các tiết hay các đoạn của điều luật? Nếu coi là khoản thì không đúng, vì hai dòng đầu sẽ không thuộc khoản nào; nếu coi là tiết cũng không đúng, vì tiết thì phải dùng chữ số để đánh thứ tự, ví dụ: tiết a, tiết b...; nếu coi là đoạn thì cũng không đúng, vì thông thường đoạn thì không có đánh số thứ tự.

Trong khoa học Luật Hình sự, các nhà làm luật thường xây dựng theo trình tự sau: Bộ luật được chia ra thành các phần, chương, mục, điều, khoản, tiết, đoạn. Như vậy, trong một điều luật nếu có một nội dung thì thường không chia thành khoản (và có thể có thêm các đoạn), trường hợp này sẽ không đánh số. Nếu trong điều luật có nhiều nội dung cần chia ra làm các khoản thì ngay sau điều luật đã đánh số để xác định khoản trong điều luật. Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng được xây dựng theo nguyên tắc này. Tuy nhiên, vẫn có một số ít điều luật có kết cấu xây dựng không theo nguyên tắc này, cụ thể: Điều 9. Cố ý phạm tội; Điều 10. Vô ý phạm tội; Điều 28. Các hình phạt; Điều 50. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội... Những hạn chế này cần được khắc phục trong việc xây dựng Bộ luật Hình sự sửa đổi lần này để bảo đảm sự thống nhất theo nguyên tắc chung trong trình tự xây dựng các điều luật.

Thường trực HĐND - UBND - UBMTTQ TP Hà Nội tổ chức Hội nghị lấy ý kiến vào dự thảo Bộ luật Hình sự sửa đổi Ảnh: D. Linh
Thường trực HĐND - UBND - UBMTTQ TP Hà Nội tổ chức Hội nghị lấy ý kiến vào dự thảo Bộ luật Hình sự sửa đổi
Ảnh: D. Linh

Phân loại tội phạm nên căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt

Tại các Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4 Điều 9 (tạm thời gọi các số thứ tự 1, 2, 3, 4 trong điều luật là các khoản để thuận lợi cho việc trình bày) quy định mức khung hình phạt cao nhất là “từ trên 3 năm đến 7 năm tù”, “từ trên 7 năm đến 15 năm tù”, “từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”. Xét về mặt ngữ pháp tiếng Việt, việc quy định mức cao nhất “là từ... đến...”  không chính xác. Đã nói mức cao nhất của một đại lượng đo lường thì chỉ có thể nói đến một mức cụ thể, ví dụ “cao nhất là 7 năm, hoặc cao nhất là đến 7 năm”; còn nếu muốn nói mức “từ trên 3 năm đến 7 năm” thì chỉ có thể nói “mà khung hình phạt quy định là từ 3 năm đến 7 năm”.

Khoản 1 quy định tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến ba năm, còn các loại tội phạm khác được quy định tại các khoản 2, 3, 4 không có các loại hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ mà quy định mức khung hình phạt cao nhất từ trên 3 năm đến 7 năm tù, từ trên 7 năm đến 15 năm tù, từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Như vậy, mặc dù nói rằng “mà mức cao nhất của khung hình phạt là”, nhưng lại quy định mức “ từ.... đến...” thì chúng ta đều phải hiểu rằng, chỉ những tội phạm mà điều luật có khung hình phạt từ trên 3 năm đến 7 năm tù mới là tội phạm nghiêm trọng. Nếu tội phạm mà điều luật không quy định mức khung hình phạt “từ trên 3 năm đến 7 năm tù” thì chỉ có thể là loại tội phạm ít nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng.

Tương tự như vậy, đối với các loại tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thì chúng ta cũng phải hiểu như vậy. Tuy nhiên, trong nhiều điều luật của Phần các tội phạm, trong cùng một điều khoản đều có quy định cả loại hình phạt tiền và hình phạt tù trên ba năm. Vậy trong trường hợp này ta xác định đây là loại tội gì (ít nghiêm trọng hay nghiêm trọng) để xử lý. Ví dụ, Khoản 2 Điều 190. Tội buôn lậu, quy định: “2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200 triệu đồng đến 1 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 3 năm đến 7 năm”.

Trong tội phạm này, nếu ta xác định bằng hình phạt tiền, tù đến 3 năm thì đây là loại tội ít nghiêm trọng, còn nếu ta xác định ở mức trên 3 năm đến 7 năm thì đây là loại tội nghiêm trọng. Việc quy định cả mức dưới và mức trên của hình phạt như vậy sẽ làm cho ta không phân biệt được loại tội do vậy không thể xử lý được trên thực tế.

Tương tự như vậy, nhiều khoản của các điều luật quy định khung hình phạt từ 5 năm đến 10 năm tù hoặc từ 12 năm đến 20 năm tù... làm ta không xác định được loại tội là rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. Khi không xác định được loại tội gì thì không thể xử lý được, vì liên quan đến việc khởi tố, thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, thời hạn xét xử, việc khởi tố theo yêu cầu người bị hại và các chế định khác liên quan đến miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, quyết định hình phạt, án tích…

Bộ luật Hình sự năm 1999 phân loại tội phạm chỉ căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt là khoa học, có căn cứ cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng. Trong những năm qua, thực hiện Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng không có khó khăn, vướng mắc gì về việc xác định loại tội phạm theo phân loại tại Khoản 2, Điều 8 BLHS.

Kiến nghị sửa đổi

Trên cơ sở phân tích như trên, đề nghị sửa đổi lại Điều 9 của Dự thảo theo hướng sau: Thứ nhất, xây dựng lại kết cấu điều luật theo nguyên tắc chung. Thứ hai, bỏ mức dưới của khung hình phạt cao nhất tại các Khoản 2, 3, 4 của điều luật. Cụ thể, điều 9 sẽ có kết cấu và nội dung như sau:

“Điều 9. Phân loại tội phạm (sửa đổi)

1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

2. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến ba năm;

3. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là đến bảy năm tù;

4. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù;

5. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”

  Điều 9 Dự thảo Bộ luật
Hình sự (sửa đổi) quy định:

“Phân loại tội phạm (sửa đổi)

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành 4 loại sau đây:

1. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;

2. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù;

3. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù;

4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”

Luật trong cuộc sống

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh
Quốc hội và Cử tri

Quy trình mới có thể rút ngắn thời gian ban hành luật từ 22 tháng xuống còn 10 tháng

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 đã tách bạch quy trình chính sách với việc lập Chương trình lập pháp hàng năm, phân định rõ hơn quy trình xây dựng chính sách và quy trình soạn thảo. Với tinh thần đó, đối với các luật, pháp lệnh cần thực hiện quy trình chính sách sẽ gồm 4 bước cơ bản. Trên cơ sở chính sách được thông qua sẽ tiến hành soạn thảo theo quy trình 7 bước, trong đó đơn giản một số thủ tục hoặc một số loại hồ sơ, tài liệu. Quy trình này có thể rút ngắn thời gian ban hành luật từ 22 tháng xuống còn 10 tháng.

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các nghị định hướng dẫn
Luật trong cuộc sống

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các nghị định hướng dẫn

Theo Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật (Bộ Tư pháp), trong chương trình làm việc Kỳ họp bất thường lần thứ Chín, Quốc hội sẽ xem xét, biểu quyết thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi). Để bảo đảm tính thống nhất và khả thi, Bộ Tư pháp đang gấp rút hoàn thiện ba nghị định hướng dẫn thi hành Luật.

Lòng dân hóa thân vào quyết sách của Quốc hội
Quốc hội và Cử tri

Lòng dân hóa thân vào quyết sách của Quốc hội

ThS.Nguyễn Vân Hậu

Trong nhiều quốc kế dân sinh được quyết nghị tại Kỳ họp thứ Tám, các chính sách về bảo hiểm y tế (BHYT), bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân, quan tâm đến người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn... đã khẳng định bản chất ưu việt của chế độ ta luôn đặt lên hàng đầu mục tiêu bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Các quyết sách được lòng dân của Quốc hội chính là sự hóa thân của lòng dân, của ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của Nhân dân, là thước đo giá trị của nền dân chủ trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Đức Tâm
Luật trong cuộc sống

Nâng quy mô vốn đầu tư công của dự án quan trọng quốc gia từ 30.000 tỷ đồng trở lên

Luật Đầu tư công năm 2024 đã nâng quy mô vốn đầu tư công của dự án quan trọng quốc gia từ 30.000 tỷ đồng trở lên; quy mô của dự án nhóm A, nhóm B và nhóm C với quy mô gấp 2 lần so với các quy định hiện hành. Phân cấp thẩm quyền cho người đứng đầu bộ, cơ quan trung ương quyết định chủ trương đầu tư dự án nhóm A do cơ quan, tổ chức mình quản lý với quy mô vốn dưới 10.000 tỷ đồng.

Ảnh minh họa
Luật trong cuộc sống

Đơn giản hóa thủ tục hành chính ngay từ khâu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Đây là một trong những nội dung nêu trong Công điện số 131/CĐ-TTg về việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm phiền hà, chi phí tuân thủ cho người dân, doanh nghiệp ngay từ khâu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký ban hành ngày 11.12 vừa qua.

Bảo đảm sử dụng đất công bằng, công khai, hiệu quả
Luật trong cuộc sống

Bảo đảm sử dụng đất công bằng, công khai, hiệu quả

Tạo hành lang pháp lý an toàn, đầy đủ, thuận lợi, ổn định, khả thi cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống người dân, nhất là các quy định chuyển tiếp, bảo đảm điều kiện tiếp cận, sử dụng đất và nguồn lực khác công bằng, công khai, hiệu quả. Đây là một trong những nội dung quyết nghị của Quốc hội nêu trong Nghị quyết về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội.

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị giải trình làm rõ những vấn đề Đoàn giám sát nêu
Luật trong cuộc sống

Tiếp tục sửa đổi các luật liên quan để gỡ khó cho thị trường bất động sản

Sau khi làm việc với 12 tỉnh, thành phố, 8 bộ, ngành, Đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm 2023” đã có cuộc làm việc với Chính phủ vào chiều 13.9.

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị
Luật trong cuộc sống

Cần cơ chế phù hợp, xử lý dứt điểm các dự án đang đình trệ

Cơ chế giải quyết phù hợp, xử lý dứt điểm đối với các dự án bất động sản gặp khó khăn, vướng mắc pháp lý, đình trệ do triển khai thực hiện, nhiều dự án kéo dài, pháp luật qua các thời kỳ có nhiều thay đổi. Đây là vấn đề được các thành viên Đoàn giám sát của Quốc hội, đại diện các bộ, ngành tập trung phân tích tại cuộc làm việc với Chính phủ về quản lý thị trường bất động sản, phát triển nhà ở xã hội.

Tài liệu của HĐND, UBND cấp xã phải nộp vào lưu trữ lịch sử
Luật trong cuộc sống

Tài liệu của HĐND, UBND cấp xã phải nộp vào lưu trữ lịch sử

Tại họp báo công bố Lệnh của Chủ tịch Nước về các luật được thông qua tại Kỳ họp thứ Bảy, Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước Đặng Thanh Tùng nêu rõ, tài liệu của HĐND, UBND cấp xã phải nộp vào lưu trữ lịch sử. Quy định này xuất phát từ thực tế khối lượng hồ sơ, tài liệu được lưu trữ tại cấp xã rất lớn, trong khi đó, nguồn lực về con người, cơ sở vật chất dành cho công tác này rất hạn chế, dẫn đến việc lưu trữ tại nhiều địa phương không bảo đảm.

Tác động tích cực đến thị trường bất động sản
Luật trong cuộc sống

Tác động tích cực đến thị trường bất động sản

Theo Luật sư HOÀNG TUẤN VŨ, Công ty Luật TNHH Tuệ Anh, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội, Luật Đất đai năm 2024 có nhiều quy định thiết thực, hợp lý, chắc chắn khi có hiệu lực thi hành sẽ tác động đáng kể đến thị trường bất động sản, đáp ứng mong đợi của chính quyền, doanh nghiệp và người dân.

Quy định chuyển tiếp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất
Luật trong cuộc sống

Quy định chuyển tiếp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất

Luật Đất đai (sửa đổi) được Quốc hội Khóa XV thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ Năm được xem là bước tiến lớn trong việc hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý và sử dụng đất đồng bộ; đồng thời, khắc phục tình trạng lãng phí, hoang hóa, ô nhiễm, suy thoái và những tồn tại, vướng mắc về quản lý và sử dụng đất do lịch sử để lại. Đặc biệt, khi Luật có hiệu lực, những quy định chuyển tiếp vẫn bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho người sử dụng đất theo hướng có lợi nhất.

Bảo đảm quyền lợi hơn cho người dân có đất bị thu hồi
Luật trong cuộc sống

Bảo đảm quyền lợi hơn cho người dân có đất bị thu hồi

Luật Đất đai (sửa đổi) được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ Năm, Quốc hội Khóa XV được xem là đạo luật quan trọng, bởi với nhiều điểm mới, Luật sẽ tác động và ảnh hưởng đến hầu hết mọi mặt của đời sống xã hội, nhất là việc bảo đảm quyền lợi hơn cho người dân có đất bị thu hồi. Theo đó, kỳ vọng khi Luật chính thức có hiệu lực và đi vào cuộc sống, cả người dân, doanh nghiệp, các tổ chức khác và Nhà nước đều được hưởng lợi.

Giảm tỷ lệ cổ phần của cổ đông lớn có giảm tỷ lệ sở hữu chéo ngân hàng không?
Luật trong cuộc sống

Giảm tỷ lệ cổ phần của cổ đông lớn có giảm tỷ lệ sở hữu chéo ngân hàng không?

Để ngăn chặn tình trạng sở hữu chéo, gây nhiều hệ lụy cho hệ thống ngân hàng, dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) cần tiếp tục hoàn thiện nhiều nội dung. Trong đó, có các quy định về những cá nhân, tổ chức là cổ đông của ngân hàng; công bố thông tin; quản trị ngân hàng; cơ chế thanh tra, giám sát…