Nam bệnh nhân L.V.K. (30 tuổi, trú tại Hà Đông, Hà Nội) tới gặp Thạc sĩ, BSCKII Nguyễn Tiến Thành - Thành viên Hội da liễu Việt Nam xin thăm khám với triệu chứng ngứa họng, cảm giác có vật gì rất vướng mỗi khi nhai nuốt thức ăn, vị trí kẽ chân răng, dây hãm lưỡi mọc u nhú, ngày càng to, dễ chảy máu.
Từ ngày xuất hiện u nhú ở miệng, anh K. cũng có cảm giác hôi miệng, ăn uống sinh hoạt khó khăn và rất lo lắng. Trước đó, bệnh nhân từng đến khám tại bệnh viện răng hàm mặt nhưng lại được bác sĩ giới thiệu sang điều trị chuyên khoa da liễu.
Sau quá trình thăm khám, bác sĩ Thành chẩn đoán bệnh nhân mắc sùi mào gà. Thông tin này khiến anh K. như chết lặng.
Bệnh nhân nhớ lại, trong 1 lần đi lên bar cùng bạn bè, do uống quá chén, vui vẻ nên đã quen được 1 người phụ nữ trên bar. Bệnh nhân có ôm, hôn môi người phụ nữ đó, tuy nhiên khẳng định chỉ hôn môi chứ không quan hệ tình dục. Sau 2 tuần đi bar, anh K. thấy bắt đầu xuất hiện tổn thương ở miệng.
Theo Thạc sĩ, BSCKII Nguyễn Tiến Thành, sùi mào gà (Genital Warts) là một bệnh lý u nhú ở người lây lan qua đường tình dục, do virus mang tên HPV (Human Papilloma Virus) gây ra. Đây là một loại virus DNA sợi kép, hiện nay đã tìm ra hơn 130 type. Sùi mào gà ở người lớn thường do HPV type 6 và 11 gây ra, đặc biệt type 16 và 18 gây ung thư cổ tử cung ở nữ giới.
Hiện nay, đường lây của sùi mào gà rất đa dạng (quan hệ tình dục, da niêm mạc tiếp xúc với dịch tiết chứa virus), vị trí mắc sùi mào gà có thể ở vùng sinh dục, hậu môn, miệng, và mí mắt. Một số bệnh nhân chưa quan hệ thực sự vẫn có thể mắc bệnh này.
Sùi mào gà bắt đầu bởi biểu hiện tổn thương sẩn mềm màu da, hồng hoặc màu nâu, đường kính khoảng một vài mm. Sau vài tuần đến vài tháng, các tổn thương có thể hợp lại thành mảng lớn hơn hay còn được gọi “tổn thương dạng súp lơ - mào gà”.
Ở nam, sùi mào gà thường gặp ở vị trí quanh hậu môn và ít thấy ở thân dương vật. Ở nữ có thể gặp ở quanh hậu môn, âm hộ, màng trinh, phía ngoài âm đạo và khu vực quanh lỗ niệu đạo. Một vài trường hợp có thể gặp ở bên trong niêm mạc âm đạo và trực tràng. Ngoài ra, sùi mào gà có thể xuất hiện ở vị trí niêm mạc, bán niêm mạc khác: mắt, miệng (lưỡi, kẽ chân răng, niêm mạc má…).
Sùi mào gà thường ít có triệu chứng cơ năng, có thể gây ngứa, đau hoặc chảy máu. Chẩn đoán xác định bệnh sùi mào gà chủ yếu dựa trên triệu chứng lâm sàng. Một số trường hợp lâm sàng không rõ có thể làm thêm giải phẫu bệnh và PCR HPV.
Bác sĩ Thành cho hay, sùi mào gà được xếp vào nhóm bệnh lây truyền qua đường tình dục, khi quan hệ với bạn tình có chứa virus HPV (có thể ở sinh dục, miệng) và có tỷ lệ thấp hơn khi vùng da, niêm mạc tiếp xúc gián tiếp với dịch tiết chứa virus HPV bởi dùng chung khăn tắm, quần lót, đồ dùng cá nhân, đôi khi là dụng cụ y tế chưa được vô khuẩn tốt.
Những người dễ bị nhiễm HPV thường là người có nhiều bạn tình, quan hệ tình dục không an toàn, quan hệ tình dục đồng giới, quan hệ tình dục thô bạo, vệ sinh kém, người suy giảm miễn dịch,... Ngoài mắc HPV, đôi khi bệnh nhân dễ đồng nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình duc khác như: lậu, giang mai, Chlamydia, HIV….
Hiện nay, có nhiều phương pháp điều trị sùi mào gà bao gồm các biện pháp can thiệp cơ học (Laser/ phẫu thuật) và hóa học để loại bỏ tổn thương. Bệnh nhân cần được khám sớm để điều trị loại bỏ tổn thương, hạn chế tổn thương lan rộng và lây nhiễm cho bạn tình.
Để phòng bệnh sùi mào gà, bác sĩ Thành khuyến cáo người dân cần thực hiện các biện pháp quan hệ tình dục an toàn. Tiêm vắc xin là biện pháp hiệu quả nhất để chị em chủ động phòng ngừa căn bệnh nguy hiểm này.
“Vắc xin phòng HPV khá an toàn và có thể đem lại hiệu quả cao trong việc bảo vệ trẻ em, phụ nữ và nam giới tránh khỏi những căn bệnh liên quan đến virus HPV. Bác sĩ khuyến cáo trẻ em trong độ tuổi 9-26 tuổi nên tiêm phòng virus HPV để trẻ được bảo vệ trước khi phơi nhiễm loại virus này”, bác sĩ Thành nói.
Cũng theo bác sĩ, khi có biểu hiện nghi ngờ bị bệnh, người bệnh cần đến ngay các cơ sở chuyên khoa da liễu, sản phụ khoa để khám và điều trị kịp thời. Cần khám sức khỏe định kỳ, kịp thời phát hiện các biểu hiện bất thường (lâm sàng, xét nghiệm) để xử lý sớm, hiệu quả, tránh lây lan cho người khác và đặc biệt tránh được nguy cơ biến chứng lâu dài.