Lạm dụng bia rượu
Khoa Phẫu thuật tiêu hóa - Gan mật tụy, Bệnh viện Bạch Mai đã tiếp nhận và điều trị hai trường hợp viêm tụy mạn điển hình là trường hợp viêm tụy mạn, sỏi tụy với hậu quả là đau bụng kéo dài và trường hợp viêm tụy mạn có biến chứng ung thư tụy. Đáng nói, cả hai trường hợp đều có liên quan đến lạm dụng bia rượu.
Cụ thể, bệnh nhân nam N.V.B (50 tuổi), có thói quen uống rượu từ năm 20 tuổi, mỗi ngày trung bình 150ml. Anh B. có biểu hiện đau bụng âm ỉ quanh rốn, thượng vị, đau bụng tăng lên kèm ăn uống kém. Phim chụp cắt lớp vi tính của anh B. cho thấy hình ảnh nhu mô tụy teo nhỏ, ống tụy giãn 1 cm và trong có rất nhiều sỏi.
Người bệnh được chẩn đoán sỏi tụy/viêm tụy mạn - nghiện rượu và được phẫu thuật theo phương pháp Frey (mở dọc ống tụy từ đầu đến đuôi tụy, lấy tổ chức đầu tụy sinh thiết, nối tụy ruột). Sau mổ, bệnh nhân được sử dụng hệ thống giảm đau, kết hợp vận động sớm sau mổ và can thiệp dinh dưỡng.
Còn bệnh nhân nam P.T.N (38 tuổi), có thói quen sử dụng rượu sớm từ năm 16 tuổi kèm theo hút thuốc lá trung bình 1 bao/ngày. Cách ngày vào viện một tháng, anh N. xuất hiện đau bụng vùng thượng vị âm ỉ kèm theo vàng mắt, vàng da tăng dần, gầy sút 5 kg trong vòng một tháng.
Người bệnh vào viện với thể trạng gầy, da niêm mạc vàng đậm, đau nhiều thượng vị lan sau lưng, ăn uống kém. Trên cộng hưởng từ và cắt lớp vi tính cùng với siêu âm nội soi (2 lần) đều cho thấy có hình ảnh giãn ống tụy, sỏi tụy, giãn đường mật trong và ngoài gan, không rõ khối vùng đầu tụy.
Qua sinh thiết tức thì hạch quanh đầu tụy cho kết quả là ung thư biểu mô tuyến di căn, do đó bệnh nhân được quyết định cắt khối tá tràng - đầu tụy, nạo vét hạch mở rộng. Kết quả giải phẫu bệnh khối tá tụy và tổ chức hạch quanh tụy là ung thư biểu mô tuyến tụy trên nền viêm tụy mạn tính, di căn 34 trên 78 hạch nạo vét được.
Tuy nhiên, sau mổ, người bệnh được sử dụng hệ thống giảm đau đa mô thức, vận động hồi phục sớm và được điều trị phối hợp với các chuyên khoa dinh dưỡng, nội tiết. Tuy phẫu thuật thành công, tiên lượng trường hợp này sẽ rất nặng do tụy viêm đã ung thư hóa và di căn hạch.
Theo bác sĩ Bệnh viện Bạch Mai, viêm tụy mạn là bệnh viêm đặc trưng bởi quá trình phá hủy nhu mô tụy tiến triển không hồi phục. Nghiện rượu được coi là nguyên nhân hàng đầu gây viêm tụy mạn (chiếm tới khoảng 90% các trường hợp).
Về cơ chế gây bệnh, rượu làm kết tủa và tăng độ nhớt của dịch tiết tuyến tụy, dẫn đến sự phát triển của các nút protein trong các ống dẫn nhỏ của tụy, sau đó hình thành sỏi gây viêm và xơ hóa tiến triển, dẫn đến hủy hoại tế bào tụy ngoại tiết, tế bào hình sao và tế bào biểu mô ống tụy.
Rượu cũng dẫn đến kích hoạt sớm trypsinogen và các enzym tiêu hóa khác trong chính các tế bào tụy ngoại tiết, điều này dẫn tới quá trình tự phá hủy trong nhu mô tụy gây nên tình trạng viêm tụy.
Bên cạnh nguyên nhân nghiện rượu, các nguyên nhân khác gây nên bệnh viêm tụy mạn ở người bệnh như đột biến gen, tắc hẹp ống tụy, tăng triglyceride máu, tăng canxi máu, viêm tụy tự miễn,… Một số trường hợp không tìm được nguyên nhân gọi là viêm tụy tự phát.
Theo thống kê, tỷ lệ mắc bệnh viêm tụy mạn ở Châu Âu là 7/100.000 dân và ở châu Á là 14/100.000 dân.
Bệnh lý âm thầm
Theo bác sĩ Khoa Phẫu thuật tiêu hóa - Gan mật tụy, Bệnh biện Bạch Mai, viêm tụy mạn là một bệnh lý âm thầm trải qua nhiều giai đoạn.
Giai đoạn sớm của viêm tụy mạn (giai đoạn A) là giai đoạn chưa có biến chứng và chưa thay đổi chức năng nội tiết và ngoại tiết của tụy. Các xét nghiệm có thể cho thấy rối loạn dung nạp đường, giảm chức năng tụy ngoại tiết nhưng không có biểu hiện ỉa chảy.
Giai đoạn trung bình (giai đoạn B) là khi viêm tụy mạn có những biến chứng, nhưng chưa ảnh hưởng tới chức năng nội tiết và ngoại tiết của tụy trên lâm sàng. Giai đoạn B được xác định với các điều kiện sau: bệnh nhân có các biến chứng của viêm tụy mạn nhưng không ỉa phân mỡ, không đái tháo đường.
Giai đoạn cuối (giai đoạn C) là giai đoạn tiến trình xơ hóa tụy dẫn tới suy chức năng tụy ngoại tiết và/hoặc tụy nội tiết, biểu hiện bằng đái tháo đường và ỉa phân mỡ.
Các triệu chứng của viêm tụy mạn thường không đặc hiệu. Tuy nhiên đối với người bệnh hoặc người có yếu tố nguy cơ như uống rượu với số lượng lớn trong thời gian dài, đặc biệt cần nghĩ tới bệnh lý này khi có các biểu hiện của bệnh.
Biểu hiện đau bụng kéo dài: Đây là triệu chứng gây khó chịu nhất cho người bệnh và cũng là chỉ định thường gặp nhất cho điều trị phẫu thuật. Đau bụng nhiều gây nên chán ăn, dẫn đến suy dinh dưỡng và giảm cân. Với bệnh viêm tụy mạn, vị trí đau thường ở thượng vị (mặc dù đau lan tỏa cả vùng bụng trên cũng có thể gặp), do đó đau thường được chẩn đoán là do viêm dạ dày.
Biểu hiện kém hấp thu: Đi ngoài phân sống và sút cân cũng là biểu hiện lâm sàng quan trọng, gặp ở giai đoạn bệnh tiến triển.
Biểu hiện đái tháo đường: Triệu chứng này chiếm tỷ lệ 20-28%, là biểu hiện của suy tụy nội tiết, đái tháo đường có đặc điểm là không ổn định và khó điều chỉnh do sự thiếu hụt cả yếu tố nhận biết tình trạng hạ đường máu được tiết ra từ tuyến tụy.
Bên cạnh các triệu chứng nêu trên, viêm tụy mạn còn gây nên một số các biến chứng như: Tắc hoặc hẹp đường mật với triệu chứng vàng da tắc mật; Tắc hoặc hẹp tá tràng với hội chứng hẹp môn vị; Tắc hoặc hẹp các mạch máu thường là tĩnh mạch cửa - mạc treo tràng trên với biểu hiện tăng áp lực tĩnh mạch cửa; Nang giả tụy có triệu chứng lâm sàng (chèn ép các cơ quan lân cận, nhiễm trùng, chảy máu,…); Dò tụy (trong hay ngoài); Cổ chướng có nguồn gốc từ tụy; Các biến chứng hiếm gặp khác (hẹp đại tràng, nang giả lách,…).
Viêm tụy mạn có dẫn đến ung thư tụy?
Các bác sĩ khuyến cáo, viêm tụy mạn được coi là yếu tố nguy cơ phát triển ung thư tụy. Tỷ lệ xuất hiện ung thư tụy ở bệnh nhân viêm tụy mạn là 1,8 - 3% sau 10 năm và 4% sau 20 năm. Nghiên cứu của Lowenfels cho thấy: nguy cơ ung thư tụy cao gấp 16 lần ở bệnh nhân viêm tụy mạn.
Khi viêm tụy tái phát nhiều lần gây ra tái tạo tế bào, dẫn đến viêm mạn tính, làm mất chức năng tế bào, phá hủy tuyến và làm tăng quá trình tân tạo tế bào. Việc tăng số lượng tế bào biểu mô ống tụy là yếu tố quan trọng hình thành ung thư tụy. Ung thư tụy có tiên lượng rất xấu, mặc dù có nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và giảm được tỷ lệ tử vong và biến chứng sau mổ, tỷ lệ sống sau 1 năm 68%, 2 năm 46,7% và 5 năm là 18,7%.
Ung thư tụy ban đầu biểu hiện triệu chứng và biến đổi cấu trúc giống như những thay đổi trong viêm tụy mạn nên các triệu chứng lâm sàng và hình ảnh rất khó phân biệt. Những khó khăn trong chẩn đoán phân biệt còn liên quan một số yếu tố khác như một số trường hợp ung thư cũng có vôi hóa ở tụy, u hoại tử cũng có hình ảnh giống nang giả. Trên người bệnh viêm tụy mạn, cần luôn theo dõi khả năng ác tính ở bệnh nhân này, đặc biệt khi tồn tại khối viêm ở tụy, có hoặc không kèm hẹp nhiều ở ống tụy chính hoặc ống mật chủ.
Viêm tụy mạn thường tiến triển âm thầm, khi phát hiện ra bệnh thường ở giai đoạn muộn. Nếu không quản lý tốt, căn bệnh viêm tụy mạn sẽ dẫn đến các biến chứng nguy hiểm có thể ảnh hưởng đến tính mạng.