Chi phí đào tạo một tiến sĩ ở Việt Nam trung bình khoảng 16 triệu đồng/năm, quá thấp

- Thứ Hai, 23/10/2023, 15:55 - Chia sẻ

Chi phí đào tạo một tiến sĩ ở Việt Nam tại các trường đại học công lập hiện nay trung bình khoảng 16 triệu đồng/năm (trừ lĩnh vực khoa học sức khỏe, khoảng gần 32 triệu đồng/năm), thấp hơn rất nhiều so với chi phí đào tạo tiến sĩ ở một số nước trong khu vực và trên thế giới.

Thông tin trên được nêu trong Dự thảo Báo cáo Kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đào tạo trình độ tiến sĩ của Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục của Quốc hội khoá XV gửi Đại biểu Quốc hội. 

Tiến sĩ tăng, công bố quốc tế tăng

Theo Báo cáo của Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục của Quốc hội, về đội ngũ, số lượng giảng viên đại học có trình độ tiến sĩ trở lên tăng đáng kể (Cụ thể, năm 2009: Số giảng viên đại học, cao đẳng là 61.190, trong đó, giảng viên có trình độ tiến sĩ là 6.217 người; giáo sư, phó giáo sư là 2.286 người. Năm 2020-2021 (không bao gồm giảng viên các trường cao đẳng) là 76.576 giảng viên (tăng 1,25 lần), 23.956 tiến sĩ (tăng 3,85 lần) và 5.222 giáo sư, phó giáo sư (tăng 2,28 lần).

Tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng từ 25% năm 2018 lên trên 31% năm 2021, trong đó, hầu hết lực lượng cán bộ tham gia giảng dạy, hướng dẫn khoa học đều có chất lượng, trình độ, học hàm, có kinh nghiệm nghiên cứu và đào tạo.

Năng lực nghiên cứu của đội ngũ giảng viên ngày càng được nâng cao, thể hiện qua việc gia tăng số lượng công trình khoa học công bố quốc tế được thực hiện bởi các nhà khoa học công tác tại các cơ sở giáo dục đại học.

Cụ thể, số lượng các bài báo khoa học trên WoS tăng từ 2.107 năm 2016 lên 7.502 năm 2020 (tăng 3,56 lần), chiếm 69,1% tổng số bài báo WoS của các nước; số lượng bài báo công bố trên tạp chí SCOPUS tăng từ 4.735 năm 2016 lên 19.888 năm 2020 (tăng 4,20 lần), chiếm 92,4% số bài báo SCOPUS của các nước.

Chi phí đào tạo 01 tiến sĩ ở Việt Nam trung bình khoảng 16 triệu đồng/năm -0
Chi phí đào tạo 01 tiến sĩ ở Việt Nam trung bình khoảng 16 triệu đồng/năm -0
Kết quả bài báo nghiên cứu khoa học (Nguồn Bộ GD-ĐT)

Nhiều cơ sở đào tạo thường xuyên rà soát, cập nhật việc đáp ứng các tiêu chuẩn, tiêu chí đối với người dạy, người hướng dẫn khoa học làm căn cứ xây dựng đề án tuyển sinh; trong đó, quan tâm đến điều kiện về công bố khoa học, năng lực nghiên cứu để phân công làm hướng dẫn chính, đồng hướng dẫn, hướng dẫn phụ và tham gia công tác giảng dạy.

Về cơ sở vật chất, theo báo cáo, trang thiết bị của phần lớn cơ sở đào tạo trình độ tiến sĩ bảo đảm đáp ứng cơ bản yêu cầu học tập, nghiên cứu của nghiên cứu sinh. Nhiều đơn vị ưu tiên tập trung đầu tư hệ thống phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu và các trang thiết bị, tài liệu phục vụ đào tạo theo hướng hiện đại, đạt chuẩn quốc tế.

Chi phí đào tạo 01 tiến sĩ ở Việt Nam trung bình khoảng 16 triệu đồng/năm -0
Chi phí đào tạo 01 tiến sĩ ở Việt Nam tại các trường đại học công lập hiện nay trung bình khoảng 16 triệu đồng/năm (trừ lĩnh vực khoa học sức khỏe, khoảng gần 32 triệu đồng/năm)

Tỉ lệ ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đại học xấp xỉ khoảng 1% so với tổng chi ngân sách nhà nước

Theo Báo cáo của Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục của Quốc hội cho biết, tỉ lệ giảng viên có học hàm giáo sư, phó giáo sư còn thấp ở những ngành, lĩnh vực đặc thù, dẫn tới khó khăn trong bảo đảm điều kiện đội ngũ để duy trì ngành đào tạo cũng như bảo đảm cơ cấu, thành phần của hội đồng đánh giá luận án của nhiều cơ sở đào tạo.

Cụ thể, năm học 2020-2021, cả nước có 76.576 giảng viên đại học, trong đó có 23.956 người có trình độ tiến sĩ, chiếm khoảng 31,3%, trong đó chỉ có 587 giáo sư (tỉ lệ khoảng 2,4% người có bằng tiến sĩ và bằng 0,75% so với tổng số giảng viên) và 4.635 phó giáo sư (19,3% và 6,05%).

Việc áp dụng tiêu chí về số lượng, tỉ lệ giảng viên cơ hữu như các cơ sở giáo dục đại học đối với 02 cơ sở đào tạo tiến sĩ rất đặc thù là Học viện Khoa học và Công nghệ thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Học viện Khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam là chưa thực sự phù hợp.

Năng lực đội ngũ giảng viên tham gia đào tạo, hướng dẫn nghiên cứu sinh còn chưa đồng đều, nhất là về năng lực sáng tạo, khả năng thực hành và ứng dụng, kỹ năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ và công nghệ thông tin. Phương pháp giảng dạy, nghiên cứu ở một số đơn vị chậm đổi mới.

Nhiều giảng viên có hạn chế nhất định trong việc cập nhật, bổ sung bài giảng, giáo trình. Không ít cán bộ, giảng viên chưa thực sự yên tâm, tâm huyết với nghề, chưa phát huy hết tiềm năng và đóng góp của bản thân cho sự nghiệp đào tạo. Yêu cầu phải có thời gian giảng dạy ở bậc đại học hoặc thạc sĩ tối thiểu 01 năm mới được tham gia đào tạo trình độ tiến sĩ gây khó khăn nhất định cho một số viện nghiên cứu, nhất là ở các ngành đào tạo đặc thù có ít nghiên cứu sinh.

 Việc tính điểm công trình nghiên cứu khoa học chỉ trong thời gian 05 năm gần nhất đối với giảng viên tham gia giảng dạy, hướng dẫn khoa học và tham gia hội đồng đánh giá mà không quan tâm tới tỉ trọng các công trình khoa học của họ đã được công bố trước đó cũng gây khó khăn trong việc tận dụng, khai thác tiềm năng của đội ngũ. Việc mời các nhà khoa học là Việt kiều, các chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài tham gia vào đào tạo trình độ tiến sĩ tại Việt Nam còn ít.

Chi phí đào tạo 01 tiến sĩ ở Việt Nam trung bình khoảng 16 triệu đồng/năm -0

Chi phí đào tạo 01 tiến sĩ ở Việt Nam trung bình khoảng 16 triệu đồng/năm -0
Thống kê số liệu về đào tạo trình độ tiến sĩ ở một số quốc gia và Việt Nam

Báo cáo cũng chỉ rõ, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phòng thí nghiệm của một số cơ sở đào tạo trình độ tiến sĩ còn thiếu và lạc hậu về công nghệ. Một số đơn vị chưa có thư viện điện tử; tài liệu tham khảo phục vụ cho đào tạo trình độ tiến sĩ của nhiều thư viện còn nghèo nàn; số lượng phần mềm, tài liệu điện tử có bản quyền ở nhiều cơ sở đào tạo còn rất hạn chế.

Đầu tư cho lĩnh vực giáo dục đại học nói chung, đào tạo trình độ tiến sĩ nói riêng còn thấp. Tỉ lệ ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đại học trong 03 năm gần đây chỉ đạt từ 4,33% đến 4,74% tổng chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo (xấp xỉ khoảng 1% so với tổng chi ngân sách nhà nước).

Mặc dù tỉ trọng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học của Việt Nam giai đoạn 2018-2020 tăng từ 0,25% lên 0,27% GDP song còn thấp hơn nhiều so với khu vực và thế giới.

Thống kê cho thấy, chi đầu tư cho giáo dục đại học tính trên GDP ở một số nước trong khu vực như Thái Lan đạt 0,64%, Trung Quốc: 0,87%, Singapore và Hàn Quốc: 1%, Malaysia: 1,13%. Một số quốc gia tiên tiến trên thế giới có mức đầu tư này cao hơn như Pháp: 1,25%; Anh: 1,29%, Australia: 1,54%, New Zealand: 1,63% và Phần Lan là 1,89%.

Nghiên cứu sinh ở Việt Nam vừa phải đóng học phí, vừa bị hạn chế tiếp cận các nguồn tài trợ nghiên cứu

Theo Báo cáo, chi phí đào tạo 01 tiến sĩ ở Việt Nam tại các trường đại học công lập hiện nay trung bình khoảng 16 triệu đồng/năm (trừ lĩnh vực khoa học sức khỏe, khoảng gần 32 triệu đồng/năm), thấp hơn rất nhiều so với chi phí đào tạo tiến sĩ ở một số nước trong khu vực và trên thế giới. Trong khi đó, ở Anh, chi phí đào tạo 01 tiến sĩ khoảng 15-16.000 Bảng Anh/năm; Úc có chi phí khoảng 22-40.000 AUD/năm; Hà Lan khoảng từ 13-20.000 EUR/năm; ở Singapore trung bình từ 20-25.000 SGD/năm; ở Mỹ khoảng 28-40.000 USD/năm.

Do đó, các cơ sở đào tạo tiến sĩ trong nước gặp rất nhiều khó khăn trong bảo đảm điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu sinh thực hiện nghiên cứu, tiếp cận với tài liệu, công bố khoa học mới nhất để tham khảo và nâng cao chất lượng luận án.

Cơ chế, chính sách học bổng và hỗ trợ kinh phí đào tạo cho nghiên cứu sinh của Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức. Ở nhiều nước trên thế giới và trong khu vực, nghiên cứu sinh không những không phải đóng học phí mà còn được cấp học bổng với mức đủ bảo đảm chi phí sinh hoạt hằng tháng và kinh phí hỗ trợ cho việc hoàn thiện luận án tiến sĩ, thậm chí còn được nhận lương khi tham gia trợ giảng hoặc nghiên cứu cùng người hướng dẫn (như ở Mỹ, Hàn Quốc, Singapore…).

Trong khi đó, nghiên cứu sinh ở Việt Nam vừa phải đóng học phí, vừa bị hạn chế tiếp cận các nguồn tài trợ nghiên cứu từ cơ sở đào tạo.

Hiện Nhà nước mới chỉ có cơ chế hỗ trợ tài chính cho nghiên cứu sinh được lựa chọn theo Đề án nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học giai đoạn 2019-2030 (ban hành kèm theo Quyết định số 89/QĐ-TTg), bao gồm: (1) hỗ trợ kinh phí thực hiện đề tài luận án (từ 13-20 triệu đồng/người học/năm và không quá 4 năm) và (2) hỗ trợ đăng bài báo khoa học quốc tế; hỗ trợ tham dự các hội nghị, hội thảo quốc tế hoặc thực tập ngắn hạn ở nước ngoài (01 lần trong cả quá trình đào tạo).

Đồng thời, chưa có các chính sách hỗ trợ, thu hút người học tiến sĩ ở các ngành, lĩnh vực nghiên cứu khoa học tự nhiên và công nghệ rất cần thiết nhưng kén chọn người học, không hấp dẫn nghiên cứu sinh (như các ngành vật lý địa cầu, vật lý hạt nhân, các ngành nông nghiệp, chăn nuôi…).

Các trường đại học chi cho nghiên cứu khoa học còn khiêm tốn

Báo cáo cũng chỉ rõ, việc gắn kết giữa nghiên cứu khoa học và hoạt động đào tạo tiến sĩ còn chưa tương xứng với tiềm năng. Tỉ lệ đề tài nghiên cứu trên số cán bộ, giảng viên của nhiều cơ sở đào tạo còn thấp, có nơi chỉ đạt tỉ lệ 0,07 đề tài/giảng viên/năm.

Nhiều đơn vị chưa quan tâm xây dựng danh mục hướng nghiên cứu, đề tài nghiên cứu của đơn vị đang triển khai để giúp nghiên cứu sinh tham khảo, đăng ký đề tài. Tỉ lệ đề tài/dự án có gắn kết với hoạt động đào tạo tiến sĩ của nhiều cơ sở đào tạo còn hạn chế, không đồng đều ở các ngành đào tạo.

Nhiều cán bộ khoa học, giảng viên trẻ chưa được tạo cơ hội chủ trì đề tài khoa học lớn. Nhiều sản phẩm nghiên cứu khoa học chưa gắn với vấn đề thời sự của Bộ, ngành; chưa gắn với sản phẩm và địa chỉ ứng dụng cụ thể. Số lượng phát minh, sáng chế được công nhận chưa nhiều. Số lượng bài báo có chất lượng cao nhìn chung còn khiêm tốn; công bố tập trung chủ yếu vào một số giảng viên có năng lực.

Kinh phí chi cho hoạt động nghiên cứu và phát triển thực hiện ở các trường đại học còn khiêm tốn, chưa tương xứng với năng lực và tiềm năng của các nhà trường.

Theo kết quả điều tra nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ năm 2020, trong tổng số 150.089 cán bộ hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển của cả nước thì có tới trên 52,4% lực lượng đang công tác tại các trường đại học, học viện; tỉ lệ cán bộ làm nghiên cứu phát triển có trình độ tiến sĩ trở lên ở các trường đại học chiếm 74,4% (16.810 người) trong tổng số 22.578 tiến sĩ của cả nước.

Trong khi đó, chi cho nghiên cứu phát triển tại các trường đại học, học viện chỉ chiếm 6,91% tổng chi cho hoạt động này. Hoạt động liên kết, hợp tác quốc tế trong đào tạo trình độ tiến sĩ còn ở quy mô, phạm vi nhỏ hẹp, chưa mang tính chiến lược trong toàn ngành.

Nhật Hồng
#