Chuyên đề: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại học

Bài 3: Phải đưa tiếng nói nhà khoa học trở thành quyền uy có sức mạnh nhất

- Thứ Sáu, 03/11/2023, 10:11 - Chia sẻ

Nhà nước phải kiến tạo và xây dựng quyền kiểm soát và dẫn dắt một trường đại học từ dưới lên, tức là phải từ nhu cầu của học thuật, từ tiếng nói quyền uy của các nhà khoa học để ngược trở lên kiến tạo “luật chơi” riêng của từng trường, để quyết định chiến lược, hướng đi của đơn vị ấy.

Khi nào tiếng nói chuyên môn trở thành tiếng nói quyền uy có sức mạnh nhất thì khi đó tự chủ đại học mới đi vào đúng chiều sâu, bản chất nhất chứ không phải là sự loay hoay giao nhau các quyền hành chính.

Phát triển chất lượng và hiệu quả của hệ thống giáo dục đại học (GDĐH) góp phần trực tiếp vào việc chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn mới theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045.

Nâng cao chất lượng giáo dục đại học là vấn đề lớn, nan giải, lâu dài và liên quan đến nhiều chủ thể trong xã hội. 

Sau khi phân tích thực trạng về giáo dục đại học hiện nay tại bài viết: "Điểm huyệt" yếu kém và hạn chế của giáo dục đại học Việt Nam, TS. Thiều Huy Thuật, ThS. Nguyễn Thị Ngọc, Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia khu vực Tây Nguyên đã nêu ra hàng loạt giải pháp như: Đổi mới, tạo bước đột phá về tư duy quản trị đại học; Tăng cường liên kết, hợp tác giữa đại học và doanh nghiệp; Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đại học; Tăng cường hội nhập quốc tế trong GDĐH; Tiếp tục tháo gỡ những khúc mắc trong tự chủ đại học; Đẩy mạnh chuyển đổi số trong GDĐH.

TS. Thiều Huy Thuật cho rằng, trong các giải pháp trên thì việc đổi mới, tạo bước đột phá về tư duy quản trị đại học. Đổi mới tư duy của những người có trách nhiệm là vấn đề cấp bách mang tính gốc rễ nếu muốn có nguồn nhân lực chất lượng hay muốn có nhân tài thật.

Tư duy quản trị GDĐH quyết định việc chỉ đạo các hoạt động cụ thể như xác lập mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp thực hiện. Trong giai đoạn hiện nay, trước đòi hỏi của thực tiễn, đặc biệt là sự đòi hỏi phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ và quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, sự đổi mới tư duy trở thành tất yếu.

Dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn, Nhà nước định hướng về nhu cầu nhân lực xã hội theo từng giai đoạn, làm căn cứ để các cơ sở GDĐH tiến hành nắm bắt thông tin, thực hiện sứ mệnh đào tạo của mình. Chừng nào và khi nào GDĐH không tương thích với nhu cầu xã hội thì chừng đó còn lãng phí nguồn lực, khó đảm bảo chất lượng bấy nhiêu.

Thêm vào đó, các trường đại học phải cam kết “chuẩn đầu ra” phù hợp với yêu cầu, nhu cầu của xã hội, chứ không phải “chuẩn đầu ra” do trường, cụ thể hơn nữa là do giảng viên tự xác định. Để GDĐH Việt Nam gắn kết với nhu cầu xã hội thì GDĐH phải gắn kết chặt chẽ hơn với các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng lao động.

Kiến tạo phát triển giáo dục đại học: Tiếng nói nhà khoa học phải trở thành quyền uy có sức mạnh nhất  -0
Đột phá về chất lượng giáo dục đại học phải bắt đầu từ người thầy (Ảnh: minh hoạ)

Nâng cao vị thế thực sự của người Thầy

Đối với nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đại học, nếu công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục của Việt Nam hiện nay vẫn không góp phần thay đổi nhằm nâng cao vị thế thực sự của người Thầy thì sẽ khó tạo ra sự đột phá về chất lượng giáo dục đại học.

TS. Thiều Huy Thuật, Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia khu vực Tây Nguyên phân tích: “Một trường đại học mà những người quản trị bất tài và không có tâm huyết thì rất khó để có được một đội ngũ nhà giáo tài năng và yêu nghề thật sự. Khi những người không xứng đáng đã chiếm được chỗ ngồi trong đại học thì đến một lúc nào đó họ sẽ tuyển chọn những người khác theo hình ảnh và kích thước của họ. Đây là nguy cơ lớn nhất của GDĐH Việt Nam hiện nay.

Vấn đề này, không những ngăn cản việc xây dựng một đội ngũ nhà giáo có năng lực và uy tín mà còn làm suy giảm nhiệt huyết của họ, gieo trong họ tâm lý thực dụng và thờ ơ với sự nghiệp giáo dục. Nếu GDĐH có sứ mệnh dẫn dắt đời sống tinh thần của xã hội, thì người làm việc ở đại học phải là người tiên phong về trí tuệ chứ không phải chạy theo những định hướng nhất thời, thiên về vụ lợi và thỏa mãn những yêu cầu ngắn hạn”.

Để xây dựng, phát triển đội ngũ này, cần có quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, có chính sách thu hút các sinh viên giỏi ở lại trường làm công tác giảng dạy. Tạo điều kiện để các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài và các chuyên gia quốc tế tham gia vào việc giảng dạy, nghiên cứu của các trường đại học trong nước. Bên cạnh đó, cần có những người làm công tác quản lý giáo dục đủ tâm, đủ tầm, đủ tài để sử dụng đúng người, giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh trong GDĐH theo tinh thần dân chủ.

Cải thiện chế độ, chính sách đãi ngộ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục, vì đến nay, nghề giáo vẫn là nghề có thu nhập thấp trong xã hội.

Linh hồn tự chủ đại học là quyền lực chuyên môn, tiếng nói của khoa học, của học thuật

Tự chủ đại học vốn là một giải pháp đột phá quan trọng, đã được triển khai trong thực tiễn và cần tiếp tục thực hiện. Thực tế, tự chủ đại học đã đi được một chặng đường quan trọng, chặng phía trước sẽ đi vào chiều sâu, hoàn thiện, đầy đủ.

Để tự chủ đạt được mục tiêu kỳ vọng, TS. Thiều Huy Thuật, ThS. Nguyễn Thị Ngọc, Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia khu vực Tây Nguyên khuyến nghị: Trong thời gian tới, các chính sách tự chủ cần được xây dựng, ban hành trên quan điểm tự chủ không phải là tự do, tự lo, không có quản lý nhà nước. Tự chủ phải trên cơ sở tuân thủ pháp luật, gắn với trách nhiệm giải trình. Cần lấy quyền lực của chuyên môn, tiếng nói của khoa học, của học thuật làm linh hồn quyền tự chủ đại học.

Kiến tạo phát triển giáo dục đại học: Tiếng nói nhà khoa học phải trở thành quyền uy có sức mạnh nhất  -0
Cần lấy quyền lực của chuyên môn, tiếng nói của khoa học, của học thuật làm linh hồn quyền tự chủ đại học (Ảnh: minh hoạ)

Về mặt triển khai chính sách, cần giải quyết được đồng thời hai nhóm vấn đề lớn gồm nhóm vấn đề bên ngoài của thực thể tự chủ và nhóm vấn đề bên trong của thực thể tự chủ. Đối với nhóm vấn đề bên ngoài, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm tiếp cận cũng như cách hiểu nội hàm khái niệm tự chủ đại học.

Bộ Giáo dục và đào tạo cần rà soát các văn bản, quy định để tháo gỡ khó khăn, kiến nghị tới các cơ quan khác để cùng thấu hiểu, giải quyết, đồng thời ban hành sổ tay tự chủ đại học tới các cơ sở giáo dục cùng tập huấn, tăng cường phổ biến pháp luật trong tự chủ đại học, đảm bảo thống nhất cách hiểu về tự chủ trong hệ thống các cơ sở giáo dục đại học.

Song song với công tác tuyên truyền, Nhà nước phải nhanh chóng hoàn thiện hành lang pháp lý rõ ràng, đồng bộ và cơ chế giám sát chặt chẽ. Sự thiếu đồng bộ giữa Luật GDĐH sửa đổi, bổ sung năm 2018 so với các văn bản quy phạm pháp luật khác cần được khắc phục theo hướng đảm bảo tính tương thích, không chồng chéo, mâu thuẫn. Đổi mới cơ chế tài chính cho GDĐH; đồng thời nghiên cứu, đẩy mạnh xã hội hóa thông qua các hình thức hợp tác đối tác công tư trong GDĐH.

Đối với nhóm vấn đề bên trong thực thể tự chủ, cần phân biệt, làm rõ mối quan hệ giữa các thiết chế trong nhà trường, có sự phân công, phối hợp, phân vai thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm trong công tác quản trị, quản lý và điều hành hoạt động nhà trường một cách hợp lý hơn.

Cần hiểu rằng thực thi quản trị đại học, hội đồng chỉ là một khâu còn quyền lực là của cả đơn vị, nếu phó thác quyền chỉ cho một hội đồng là một sai lầm.

Trước đây, quyền do bộ chủ quản áp dụng theo hình thức mệnh lệnh hành chính thì bây giờ quyền kiểm soát một đại học, trường đại học phải bằng mọi cách theo chiều ngược lại.

“Nhà nước phải kiến tạo và xây dựng quyền kiểm soát và dẫn dắt một trường đại học từ dưới lên, tức là phải từ nhu cầu của học thuật, từ tiếng nói quyền uy của các nhà khoa học để ngược trở lên kiến tạo “luật chơi” riêng của từng trường, để quyết định chiến lược, hướng đi của đơn vị ấy. Khi nào tiếng nói chuyên môn trở thành tiếng nói quyền uy có sức mạnh nhất thì khi đó tự chủ đại học mới đi vào đúng chiều sâu, bản chất nhất chứ không phải là sự loay hoay giao nhau các quyền hành chính” - TS. Thiều Huy Thuật nhấn mạnh.

Kiến tạo phát triển giáo dục đại học: Tiếng nói nhà khoa học phải trở thành quyền uy có sức mạnh nhất  -0
Sinh viên trường ĐH Kinh tế Tài chính

Phân loại cơ sở giáo dục đại học theo các mục tiêu phát triển

Đưa ra giải pháp về một số chính sách đầu tư phát triển giáo dục đại học Việt Nam, nhóm nghiên cứu GS.TS Vũ Văn Yêm, PGS.TS Huỳnh Quyết Thắng và ThS Nguyễn Yến Chi, ĐH Bách khoa Hà Nội cho rằng, công tác phân loại cơ sở GDĐH theo các mục tiêu phát triển có lợi ích to lớn trong xây dựng chiến lược nâng cao chất lượng GDĐH và thu hút các nguồn lực tham gia. 

Thứ nhất, cần phân loại cơ sở GDĐH theo sở hữu công lập - tư thục và xây dựng và triển khai các các chính sách để thu hút đầu tư tư nhân vào GDĐH, mục tiêu tăng quy mô đào tạo tại các cơ sở GDĐH tư thục lên khoảng 30% tổng quy mô hệ thống.

Thứ hai, cần phân loại theo quy mô đào tạo, nhằm sáp nhập, hợp nhất các trường có quy mô nhỏ, đào tạo đơn lĩnh vực thành các trường có quy mô lớn, đa lĩnh vực, từ đó, tăng hiệu quả hoạt động theo quy mô và giảm số đầu mối quản lý. Nghiên cứu từ Đề tài Cơ sở khoa học của Quy hoạch mạng lưới các cơ sở GDĐH Việt Nam đã chỉ ra các cơ sở GDĐH có quy mô lớn (khoảng trên 10.000 SV) có khả năng thu hút nguồn lực tốt hơn, có tỷ lệ tăng trưởng nguồn thu và nguồn thu ngoài ngân sách hàng năm cao hơn các cơ sở GDĐH có quy mô nhỏ hơn.

Thứ ba, cần phân loại theo lĩnh vực đào tạo để chọn ra các trường trọng điểm ngành/ khối ngành. Ngoài một số trường và đại học có quy mô lớn và uy tín nghiên cứu, đào tạo lâu năm, đáng chú ý có một số trường tuy quy mô nhỏ, chỉ tập trung đào tạo một lĩnh vực, ví dụ như Học viện Tài chính thuộc Bộ Tài chính, Học viện Ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước tuy chất lượng tuyển sinh đầu vào không cao như Trường Đại học Ngoại thương hay Trường Đại học Kinh tế quốc dân nhưng đa số sinh viên ra trường có khả năng tìm việc phù hợp, kết quả đào tạo được xã hội công nhận. Đó là minh chứng cho thấy mỗi lĩnh vực cần quy hoạch các trường đại học trọng điểm ngành nhằm đầu tư trọng tâm, trọng điểm, vun cao để tối đa hiệu quả đào tạo - nghiên cứu phục vụ nhóm ngành đó. Ví dụ như lĩnh vực Y tế, Giáo dục có thể quy hoạch 3 trường Đại học khối Y - Dược, 3 trường đại học sư phạm trọng điểm nằm tại 3 miền Bắc - Trung - Nam.

Thứ tư, cần phân loại theo phân vùng kinh tế - xã hội, để đảm bảo tiếp cận giáo dục cho người dân địa phương, đồng thời phát triển chương trình giáo dục và phân bổ nguồn lực phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Ví dụ: Với khu vực ba Tây (Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ), chương trình đào tạo cần mang tính ứng dụng cao, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh tại địa phương; đồng thời tăng cường hình thức dạy học trực tuyến, triển khai các lớp học đại chúng mở có cơ chế đảm bảo chất lượng, phối hợp với các cơ sở GDĐH có uy tín tại các địa phương phát triển hơn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh để tăng cường khả năng tiếp cận và chất lượng giảng dạy.

Thứ năm, cần chọn ra một số cơ sở GDĐH trọng điểm quốc gia có nhiệm vụ dẫn dắt hệ thống về nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ, gắn đào tạo sau đại học với nghiên cứu; có sứ mạng tham gia hợp tác và cạnh tranh quốc tế, nâng tầm cơ sở vật chất và nguồn lực tương đương với các trường top đầu khu vực trong trung hạn.

Kiến tạo phát triển giáo dục đại học: Tiếng nói nhà khoa học phải trở thành quyền uy có sức mạnh nhất -0
Người làm nghiên cứu thực chất sẽ bị lạc lõng và thiếu sự quan tâm, hỗ trợ (Ảnh: minh hoạ)

Nhà nước vẫn phải đóng vai trò nòng cốt, phải đảm bảo thực chi ở mức 20% chi Ngân sách nhà nước cho giáo dục

Hệ thống GDĐH đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ sang cơ chế tự chủ theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH (Luật số 34, năm 2018). Tự chủ đại học gắn với nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo và số lượng, chất lượng các hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và đổi mới sáng tạo. Số lượng và chất lượng các công trình khoa học công bố trong nước, quốc tế của Việt Nam tăng lên trong thời gian vừa qua có sự đóng góp rõ nét từ hệ thống GDĐH.

Tuy nhiên, GS.TS Lê Anh Tuấn, Chủ tịch Hội đồng trường ĐH Bách khoa Hà Nội cho rằng, quan điểm đại học tự chủ bị cắt ngân sách chi thường xuyên, hạn chế hoặc cắt ngân sách chi đầu tư dẫn tới nhiều cơ sở GDĐH trong giai đoạn chưa đa dạng được các nguồn thu phải hạn chế chi đầu tư thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và đổi mới sáng tạo.

Một khi đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và đổi mới sáng tạo giảm thì môi trường nghiên cứu sẽ kém sôi động, cơ sở vật chất cho nghiên cứu không được nâng cấp, chính sách thúc đẩy hoạt động KHCN nói chung cũng khó được xây dựng và phát triển, người làm nghiên cứu thực chất sẽ bị lạc lõng và thiếu sự quan tâm, hỗ trợ.

Nhiều nhà khoa học được đào tạo bài bản ở nước ngoài, có năng lực làm nghiên cứu tốt nhưng khi về nước một thời gian do thiếu động lực, thiếu cơ chế hỗ trợ, thiếu cơ sở vật chất và môi trường nghiên cứu năng động nên năng suất nghiên cứu sụt giảm.

Theo GS.TS Lê Anh Tuấn, nguồn thu chủ yếu của một cơ sở GDĐH phụ thuộc vào học phí là một bất cập lớn, không chỉ tác động xấu đến khả năng thực hiện sứ mạng của một cơ sở GDĐH công lập mà còn có thể buộc cơ sở GDĐH công lập tự chủ phải điều chỉnh, thậm chí dừng tuyển sinh các chương trình đào tạo không thu hút thí sinh do hiệu ứng đám đông trước mắt về ngành học nặng nhọc, thu nhập không tương xứng sau khi ra trường… trong khi các ngành học này là những ngành học nền tảng, cần thiết cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Bên cạnh đó, việc tăng học phí để trang trải cho các chi phí đào tạo và đảm bảo nâng cao chất lượng đào tạo dẫn tới khó khăn cho sinh viên, hạn chế khả năng tiếp cận học tập của sinh viên giỏi nhưng xuất thân từ các vùng, gia đình khó khăn.

TS. Thiều Huy Thuật, ThS. Nguyễn Thị Ngọc, Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia khu vực Tây Nguyên nhấn mạnh: "Để nâng cao chất lượng GDĐH cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó đổi mới về cơ chế, chính sách, về năng lực quản trị, điều hành, đầu tư nguồn lực, quy hoạch mạng lưới và gắn kết giữa đào tạo với thị trường lao động, hoạt động của doanh nghiệp, chính sách đảm bảo công bằng trong tiếp cận giáo dục ĐH có chất lượng cho các nhóm xã hội .

Dù thực hiện giải pháp nào, giải pháp đó có tính đột phá đến đâu thì Nhà nước vẫn đóng vai trò nòng cốt trong việc định hướng, tạo hành lang pháp lý để các chủ thể khác tổ chức triển khai chính sách.

Các cơ sở GDĐH, với vai trò là chủ thể chính thực thi sứ mệnh đào tạo, cần phát huy hơn nữa vai trò chủ đạo của mình trong việc hiện thực hóa các mục tiêu của Nhà nước, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng yêu cầu trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt".

Kiến tạo phát triển giáo dục đại học: Tiếng nói nhà khoa học phải trở thành quyền uy có sức mạnh nhất  -0
Sinh viên ĐH Bách khoa Hà Nội

Theo Giám đốc ĐH Bách khoa Hà Nội PGS.TS Huỳnh Quyết Thắng, dù là phương pháp nào, để phát triển dài hạn, cần xây dựng lộ trình để tăng tỷ lệ đầu tư cho giáo dục nói chung hoặc ít nhất luôn phải đảm bảo thực chi ở mức 20% chi NSNN cho giáo dục.

Chi cho GDĐH phải được coi là chi đầu tư cho phát triển. Tăng đầu tư cho GDĐH hoặc tái cơ cấu nguồn chi để có thể tăng chi cho GDĐH theo GDP lên ít nhất 1% vào năm 2030 để đạt mức khuyến nghị từ kinh nghiệm quốc tế (Ngân hàng Thế giới, 2020).

PGS.TS Huỳnh Quyết Thắng cho rằng, nâng cao chất lượng GDĐH không phải nhiệm vụ của riêng ngành giáo dục, đây là nhiệm vụ lớn cần sự nỗ lực, phối hợp liên ngành lâu dài của nhiều chủ thể trong xã hội bao gồm cả trường đại học, Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội.

Sự hợp tác liên ngành này phải trên cơ sở hướng đến mục tiêu chung là chất lượng giáo dục và theo đúng tinh thần mà Đảng đã đề ra: “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước”.

3 giải pháp tăng đầu tư cho giáo dục đại học

PGS.TS Huỳnh Quyết Thắng, Giám đốc ĐH Bách khoa Hà Nội cho biết, Chính phủ có những giới hạn về ngân sách nên khó có thể kỳ vọng một mức tăng nhảy vọt cho GDĐH.

Tuy nhiên, có ba phương pháp chính giúp nâng cao hiệu quả đầu tư ngân sách nhà nước (NSNN) cho GDĐH:

Thứ nhất, tái cơ cấu chi NSNN cho giáo dục để tăng tỷ trọng chi cho GDĐH.

Thứ hai, tái cơ cấu kinh phí khoa học công nghệ thông qua tái cấu trúc hệ thống viện nghiên cứu để gắn với quy hoạch phát triển các cơ sở GDĐH. Xét về chức năng nghiên cứu và thực hiện các hoạt động khoa học công nghệ, các cơ sở GDĐH và các viện nghiên cứu không nên được quản lý riêng rẽ.

Các yếu tố đầu vào và đầu ra của hai loại hình tổ chức cần được tổng hợp một cách hệ thống và thực hiện tái cơ cấu nguồn chi: đầu tư trọng tâm vào các đơn vị có năng lực nghiên cứu tốt, tài trợ cho các chương trình nghiên cứu lớn, chương trình cấp nhà nước do một trường hoặc một nhóm trường, một nhóm đơn vị có uy tín đề xuất.

Thứ ba, thu hút đầu tư tư nhân vào GDĐH. Đầu tư tư nhân giúp giảm gánh nặng chi NSNN và mở rộng quy mô. Để làm được điều này, cần hành lang pháp lý rõ ràng, cơ chế có tính mở để các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động đào tạo, nghiên cứu tại GDĐH; ví dụ thông qua đầu tư phòng thí nghiệm, sử dụng quỹ khoa học và công nghệ của doanh nghiệp tài trợ các đề tài nghiên cứu tại cơ sở GDĐH...

Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh tự chủ đại học, tạo điều kiện về cơ chế chính sách để các đại học, trường đại học chủ động đa dạng hóa các nguồn thu, tự do nhưng không tự lo.

Nhật Hồng
#