Cảm hứng thế sự ở Lê Minh Khuê (Kỳ 1)

- Thứ Tư, 06/03/2013, 08:48 - Chia sẻ
Cảm hứng thế sự là một mạch cảm hứng quan trọng, chi phối đến nhiều phương diện nghệ thuật của truyện ngắn Lê Minh Khuê. Nó bộc lộ niềm trăn trở thường trực của nhà văn trong việc xác lập những giá trị tinh thần mới, vừa thiết thực và gần gũi với đời sống hôm nay nhưng vẫn phải đáp ứng được những chuẩn mực nhân văn muôn thuở.

>> Cảm hứng thế sự ở Lê Minh Khuê (Kỳ cuối)

1. Sau 1975, con người Việt Nam phải đối mặt với một hiện thực mới, với những thử thách khốc liệt không ở trong họng súng mà trong sự cay cực, thiếu thốn triền miên của đời sống cơm áo thời hậu chiến. Và lúc cơ chế quan liêu bao cấp được thay thế bởi cơ chế thị trường thì, cùng với sự thay da đổi thịt của đời sống vật chất, bộ mặt xã hội thời mở cửa cũng kịp phô ra biết bao sự xô bồ, ác hiểm. Điều này khiến cho các nhà văn lớp trước, vốn quen với cái nhìn sử thi về hiện thực, giờ đây, hoặc là, bất lực trước một đời sống đổi thay đến chóng mặt và trở nên quá xa lạ, chấp nhận “đóng cửa phòng văn hì hục viết” với hồi quang của “cái thời lãng mạn”; hoặc là, họ buộc phải tự điều chỉnh nhận thức về đời sống, thậm chí phải thay đổi triệt để, để can đảm “ai điếu cho một giai đoạn văn học minh họa”, trong đó có chính họ. Lời kêu gọi “nhìn thẳng sự thật, nói rõ sự thật” trong thời kỳ này vừa là một yêu cầu bức thiết của hiện thực, đồng thời cũng là một nhu cầu tự thân, mang tính sống còn của nghệ sĩ, nếu như không muốn sáng tác của họ bị bỏ lại đằng sau thực tại đời sống mà chính họ đang tham dự và đối mặt.


Nhà văn Lê Minh Khuê (bên trái) và một nhà văn Malaysia trong liên hoan văn học ở Hàn Quốc, 2008
Trên thực tế, đến những năm 80 của thế kỷ XX, sau những lúng túng tìm đường, nhiều nhà văn thế hệ chống Mỹ đã nhanh chóng bứt ra khỏi từ trường của “khoảng chân không văn học” (Nguyên Ngọc) để tiếp tục dấn bước sáng tạo. Không hẹn mà gặp, trong sáng tác của nhiều tác giả này, chẳng hạn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Lê Lựu, Chu Lai… cảm hứng sử thi dần được thay thế bằng cảm hứng nhân sinh, thế sự. Với nhu cầu nhận thức lại hiện thực, thay cho cái nhìn đơn tuyến và đậm tính lý tưởng trước đây là một cái nhìn đa chiều, gai góc, đậm tính phê phán. Cảm hứng này sẽ còn được tiếp tục đậm nét hơn, đa dạng hơn trong sáng tác của thế hệ các nhà văn thế hệ sau như Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ… Đặt trong dòng chảy đó, ta dễ dàng thấy sự xuất hiện của cảm hứng thế sự trong sáng tác của Lê Minh Khuê là một tất yếu logic – lịch sử.

Như nhiều cây bút cùng thế hệ, Lê Minh Khuê không ngần ngại bám sát vào những ngõ ngách của hiện thực thời hậu chiến, nhất là ở những mặt trái, góc khuất của nó. Trong truyện ngắn của bà, ta bắt gặp rất nhiều tin tức, sự kiện như được cắt ra từ các mẩu tin trên báo chí hàng ngày. Nhưng từ những “chất liệu thô” của thời cuộc, nhà văn biết cách gạn lọc và nâng cấp lên thành những vấn đề nhân sinh đáng suy ngẫm. Đằng sau những thông tin sự vụ, bà nhìn thấy những câu chuyện về cuộc sống con người, những chuẩn mực đạo đức của một xã hội, văn hóa của một thời đại. Có thể nói, đọc truyện ngắn của Lê Minh Khuê, ta được cung cấp một bức tranh hiện thực đời sống đầy chi tiết, sinh động, nồng nã vị khốn khó, cơ cực khi đất nước chuyển từ thời chiến sang thời bình, trong cơ chế quan liêu bao cấp cho đến thời mở cửa thị trường. Hiện diện trong các trang viết của tác giả là sự đảo lộn gay gắt của các thang bậc giá trị, sự áp đảo kinh hoàng của cái xấu, cái ác cũng như sự lép vế của những giá trị tinh thần - đạo đức giữa một xã hội thực dụng, cằn cỗi nhân tính. Đấy là một đời sống mà những mối quan hệ gia đình, xã hội chỉ như những sợi dây ràng buộc lỏng lẻo, đời sống áo cơm ghì người ta đến sát đất, con người không còn liêm sỉ, lòng tự trọng, và nếu có, nó chỉ khiến người ta chua xót hơn vì sự bất lực và thảm hại của chính mình. Đấy là một đời sống mà trong đó, cha con, anh em sẵn sàng giết nhau vì tiền; cha đẻ có thể bán con vì nghiện hút; quan chức tham nhũng, trác táng, kẻ mang danh trí thức kỳ thực chỉ là những kẻ hèn đớn, háo danh, trì độn… Như cái bóng ghê sợ lừng lững ám ảnh trong nhiều trang viết của Lê Minh Khuê là những kẻ bất thành nhân dạng, đại diện cho một não trạng tinh thần mông muội, thấp kém và hung hãn. Trong truyện ngắn Lê Minh Khuê, cảm hứng thế sự được thể hiện trước hết trong chủ đề hoàn cảnh tàn nhẫn và sự tha hóa của con người. Bị chi phối bởi hoàn cảnh, phần đông con người trở nên bế tắc mệt mỏi, đánh mất niềm tin vào những giá trị tốt đẹp. Họ trở nên thờ ơ, vô trách nhiệm hoặc tham lam, bần tiện, giả dối, trở thành “đám đông ngu muội”. Dù là một chủ đề quen thuộc trong sáng tác của các tác giả hiện thực chủ nghĩa, song việc tập trung khai thác sự tối tăm hèn nhược của con người trong một bối cảnh xã hội cụ thể cùng với khả năng rút tỉa những chi tiết cốt lõi của đời sống nhằm nhận chân tinh thần của một thời kỳ lịch sử đầy những hoang mang xáo trộn đã tạo nên một không khí đương đại rất rõ trong các tác phẩm của Lê Minh Khuê. Trong sự đối chiếu giữa thời chiến và thời bình, tác giả bộc lộ một sự thức nhận khá rạch ròi. Một mặt, bà chỉ ra sự đổi thay theo hướng xấu đi của con người trong thời hậu chiến, đặc biệt ở các đô thị, nơi mà tác động của kinh tế thị trường hiện lên trước hết và rõ rệt nhất. Nhưng mặt khác, bà không tô vẽ quá khứ. Quá khứ chiến tranh được mô tả từ góc nhìn thế sự, đời tư chứ không phải từ góc nhìn sử thi và việc đặt quá khứ ấy trong tương quan đối lập với hiện tại là nhằm để rút ra những bài học nhận thức tỉnh táo, cần thiết cho hiện tại. Cũng chính ở đây, cảm hứng thế sự đã gắn liền với một cảm hứng mới: nhìn thẳng vào sự thật, nhận chân lại các giá trị.

2. Cảm hứng thế sự chi phối chặt chẽ đến hệ thống hình tượng trong tác phẩm Lê Minh Khuê. Nổi bật và xuyên suốt trong truyện ngắn của tác giả này là hình tượng con người bế tắc và bất lực. Họ ý thức sâu sắc về cái cuộc sống tồi tệ đang phải chịu đựng nhưng không có cách gì thoát ra được. Đau đớn bởi sự tối tăm, cùn mòn, khát khao được thay đổi, nhưng họ biết rõ hơn ai hết về sự bất lực, vô vọng của chính mình. Nhà văn thường bắt đầu vấn đề từ những tình huống đời sống rất đỗi bình thường, với một lối kể, tả khá tự nhiên, nhuần nhị. Cơn mưa cuối mùa kể về một mối tình sét đánh của Mi, một nữ kỹ sư đã có chồng con, với một đồng nghiệp, cũng đã có gia đình, trong một chuyến công tác trên công trường xây dựng. Nhưng tác giả không mô tả và phán xét cuộc ngoại tình này dưới góc độ đạo đức như thường thấy. Được nhìn nhận dưới góc độ nhận thức, nó trở thành một phép thử để qua đó, con người có cơ hội để kiểm chứng lại giá trị, ý nghĩa đời mình. Mối tình ấy chỉ tồn tại vừa đủ để soi sáng cuộc sống vất vả, đơn điệu của nhân vật Mi, làm dấy lên những khát vọng sống tưởng đã tắt vì những lam lũ lo toan của cô, nhưng đồng thời nó cũng bóc trần những ảo tưởng của cô về bất kỳ một cuộc kiếm tìm nào khác. Tiếng khóc của nhân vật quả thực nói lên nhiều điều: “Em không thể làm gì được nữa. Mọi thứ đã xong xuôi rồi”. Cái quán tính sống ấy sẽ không thay đổi, không có cách gì thay đổi. Rốt cục thứ tình cảm “ngoài luồng” ấy chỉ phản chiếu rõ nét hơn cuộc sống khắc nghiệt, mệt mỏi, cả những ảo tưởng lẫn sự bất lực của con người. Trong Thằn lằn, giọng điệu hài hước và chua xót, nhà văn đã chạm được đến cái đáy sâu tuyệt vọng và nỗi khốn cùng của con người trong một đời sống nghèo kiệt, tăm tối về vật chất lẫn tinh thần: “Gã cất tiếng khóc hu hu. Gã khóc như con chó tru giữa đêm. Gã cũng chả trách móc gã, cũng chả giận nàng. Cái số của gã nó như vậy. Gã biết gã là giun dế trong đám giun, nhưng gã vẫn tủi lắm”… Quá khứ hiện lên như một cuốn phim quay chậm, với một ý thức ngậm ngùi của nhân vật về “cái thời ngày xưa”, khi anh ta thấy mình “có đến nỗi nào. Chả đến nỗi dị mọ như bây giờ”. Nhưng sau cao trào phẫn uất suýt dẫn đến tự sát ấy, rốt cục, nhân vật  lại “lọ mọ” cho cái cà vạt (định dùng để tự sát – chú thích của L.H.Q.) “vào túi ni lông. Để vào giữa cuốn sổ, đóng cái rương, cài móc sắt, đẩy cái rương vào chỗ cũ” với “hai thúng khoai để lên cái rương”. Cũng vậy, mối tình thời chiến trận đầy lãng mạn và hào hùng giữa Thắng và Cúc trong Dạo đó, thời chiến tranh rốt cục cũng bị những nhỏ nhen tàn nhẫn của đời thường nghiền nát. Người anh hùng của thời chiến trở nên “bạc nhược”, “chỉ biết than thở uống rượu”, trở nên “khùng khùng”. Những ảo tưởng về một tình yêu thăng hoa bị vùi dập thảm hại. Kết thúc là một sự thất vọng bao trùm: “Trời ơi, biết thế này thì mơ mộng làm gì? Khổ thân cho những kẻ mơ mộng”. Điều đáng nói thêm là sau tất cả những giãy giụa để tìm kiếm lối thoát, rốt cục nhân vật Cúc (cũng như phần lớn kiểu nhân vật phản tỉnh này trong văn Lê Minh Khuê) lại “chạy vào cái cối xay đã xay nát tình yêu của họ”.

Ở đây, ta có thể nói tới một kiểu motif nhân vật bi kịch (vỡ mộng, bất lực), rất gần với kiểu nhân vật trung tâm trong loại hình truyện ngắn hiện thực chủ nghĩa. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở chủ đề sự tàn nhẫn của đời sống và bi kịch tha hóa của con người, e rằng những nhân vật của Lê Minh Khuê khó lòng vượt qua được những Điền, Hộ, Thứ, San… trong truyện ngắn Nam Cao (hoặc một số nhân vật điển hình trong truyện của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… trước đó). Sự khác biệt nằm trong những thông tin lịch sử mà những nhân vật của Lê Minh Khuê đem lại. Những con người đó là sản phẩm của một giai đoạn lịch sử - xã hội cụ thể của đất nước. Những đau đớn, vật vã, cả sự bi đát và thảm hại trong đời sống của con người ấy là kết quả của một ý thức “tra vấn lịch sử” khá rạch ròi, thậm chí đôi khi chao chát, nghiệt ngã. Do đó, chân dung những Mi, Thắng, Cúc, anh giáo làng… ở đây vừa có những nét rất gần gũi với những nhân vật của chủ nghĩa hiện thực, song lại có những nét rất cá biệt, mang dấu ấn đặc thù của cái thời hậu chiến. Đó là cái thời đoạn khi chiến tranh kết thúc, chưa kịp hồi sức, với bao khao khát và hy vọng, con người đã phải đối mặt với một hoàn cảnh thực tế không hề lý tưởng như mong đợi, đầy thiếu thốn, nhem nhuốc, bệ rạc, khiến những khao khát ấy trở nên lạc lõng, hài hước, thậm chí thảm hại.

Đặt nhân vật trong một bối cảnh lịch sử - xã hội cụ thể, bên cạnh việc phát hiện và mô tả sự bế tắc và bất lực của con người, thật ra nhà văn còn muốn đi xa hơn: những sang chấn lịch sử tới đời sống tinh thần của con người. Con người với những chấn thương lịch sử, do vậy, cũng là một kiểu hình tượng nổi bật trong văn Lê Minh Khuê. Như đã nói trên, truyện của tác giả này phần lớn viết về khoảng thời gian vài ba chục năm, bao quát từ thời kháng chiến đến thời Đổi mới, với sự thay đổi liên tục của bối cảnh xã hội và cơ chế kinh tế. Trong những truyện ngắn dường như chỉ nói tới những vấn đề của đời sống hiện tại (có khi lùi hàng chục/ mấy chục năm sau chiến tranh) nhưng ám ảnh của những mất mát, của sự phi lý, sự sợ hãi bởi chiến tranh vẫn rất rõ (Một chiều xa thành phố, Cơn mưa cuối mùa, Một ngày đi trên đường, Bi kịch nhỏ, Biển mịt mù…) Chiến tranh ở đây hiện lên vừa như phần ký ức trong đời sống lịch sử dân tộc và trong ký ức của mỗi cá nhân vừa với tư cách là kẻ tham dự, kẻ chứng kiến và cũng là nạn nhân của chính nó. Những chấn thương ấy vẫn tiếp tục ngay cả khi cuộc chiến trên thực tế đã dừng lại. Ga xép, Biển mịt mù hay Một buổi chiều thật muộn chính là viết về những vết thương tinh thần như vậy. Cái đời sống được mô tả trong những câu chuyện này đã đạt đến một giá trị biểu tượng rất đáng kể. Đó là một trạng thái đời sống mà ở đó, con người luôn tồn tại trong những nỗi sợ hãi mơ hồ nhưng dai dẳng, nó tạo nên sự khiếp nhược khiến người ta muốn ứa nước mắt, cảm giác bất lực trước một đời sống không thể hiểu, không thể lý giải, một đời sống làm người ta hoang mang, nghi ngờ, muốn chối bỏ, muốn trốn chạy. Hình ảnh “bức tường cao ken đầy mảnh chai bên trên giằng dây thép gai” trong một ngôi nhà “sặc sỡ kiểu cách kỳ quặc” và giấc mơ hằng đêm của ông già cô độc tên Lăng trong ngôi nhà ấy chính là một hình ảnh mang tính tượng trưng như vậy. Ám ảnh trong câu chuyện này cũng là ẩn dụ về cuộc đời của con người như một ga xép hắt hiu tàn lạnh và nỗi ám ảnh về lịch sử như những chuyến tàu lao hối hả với tiếng bánh xe nghiến trên đường sắt hãi hùng. Thông qua dòng chảy ký ức như cơn mộng du đứt nối của một ông già, lịch sử, chiến tranh, đời sống quá khứ, thực tại… đan dệt, giao thoa, đồng hiện, gợi nên nhiều chiều kích hiện thực. Gút lại những ám ảnh, những giấc mơ, những lời trò chuyện, những đầu mối liên hệ, tưởng tượng nhiều khi được đẩy đi rất xa là một đời sống thô lậu, nhếch nhác, hãi hùng mà con người càng cố lùi xa, cố thoát ra, lại cứ bị cuốn vào.

(Còn một kỳ nữa)

Lê Hồ Quang