Dự thảo Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi)

Bản chất thu, chi ngân sách, cơ cấu và phân cấp ngân sách cần được giải quyết căn bản hơn, cụ thể hơn cho từng cấp ngân sách, từng loại địa phương

Thực tế 10 năm hoạt động ngân sách theo Luật NSNN 2002 đã cho thấy không ít vướng mắc và bộc lộ những hạn chế cần phải sửa đổi, bổ sung. Ngoài lý do về những hạn chế trong hoạt động NSNN, trong cơ chế quản lý NSNN, cần phải thấy thêm một số lý do rất bản chất, đó là cấu trúc thu, chi ngân sách về cơ bản chưa có những thay đổi đáng kể.

Luật Ngân sách Nhà nước (NSNN) năm 2002 được QH Khóa XI thông qua ngày 16.12.2002 và có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004. Đến nay, qua hơn 10 năm thực hiện, Luật đang trong năm tài khóa thứ 11 và đã đi vào cuộc sống, phát huy mạnh mẽ tiềm năng đất nước, bảo đảm phát triển NSNN nhanh và vững chắc, trên cơ sở tăng quyền chủ động, trách nhiệm của địa phương và các bộ, ngành trong việc quản lý tài chính - ngân sách được phân cấp. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong quản lý ngân sách phù hợp với tiến trình cải cách hành chính Nhà nước. Xây dựng nền tài chính lành mạnh, công khai, tăng cường kỷ cương, kỷ luật, thực hiện chế độ trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách. Chủ động đáp ứng các yêu cầu mới đặt ra trong quá trình tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn phát triển tới. Điều thấy rõ nhất là quy mô ngân sách cứ 5 năm sau lại gấp hai lần số thu 5 năm trước.

Dẫu vậy, thực tế 10 năm hoạt động ngân sách theo Luật NSNN 2002 đã cho thấy không ít vướng mắc và bộc lộ những hạn chế cần phải sửa đổi, bổ sung. Ngoài lý do về những hạn chế trong hoạt động NSNN, trong cơ chế quản lý NSNN, cần phải thấy thêm một số lý do rất bản chất, đó là cấu trúc thu, chi ngân sách về cơ bản chưa có những thay đổi đáng kể.

Do vậy, cần thấy hết đặc điểm của NSNN Việt nam để có định hướng và giải pháp sửa đổi, bổ sung Luật lần này cho phù hợp hơn.

Trước hết, những quy định về thu, chi ngân sách còn thiếu rõ ràng. Luật NSNN 2002 quy định: NSNN là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước (Điều 1). Nhưng Luật lại chưa khẳng định rõ là số phải thu đã thuộc sở hữu Nhà nước hay số thực thu vào Kho bạc Nhà nước; số thực chi, thực sử dụng hay số tiền thực xuất quỹ khỏi kho bạc (?). Trên thực tế, thu NSNN lâu nay chỉ thể hiện số thực thu vào ngân sách, số thực thu vào kho bạc, còn rất nhiều khoản của NSNN vẫn được coi là nợ đọng như số thuế phải nộp đã được cơ quan Thuế, Hải quan xác định, nhưng đơn vị chưa nộp hoặc đã nộp nhưng chưa vào kho bạc. Về thực chất kế toán phản ánh số thu, chi NSNN vẫn chỉ là kế toán thu, chi tiền đã nhập xuất quỹ NSNN mà hoàn toàn chưa phải số thực thu và thực chi đúng nghĩa của ngân sách. Đây cũng là lý do giải thích trong cơ cấu thu chi NSNN của Việt Nam có một khoản thu, chi được gọi là chuyển nguồn rất lớn, càng năm sau càng lớn hơn năm trước và đến nay đã lên đến hàng trăm nghìn tỷ đồng, làm sai lệch bản chất thu, chi ngân sách. Đó là chưa kể tới nhiều tỷ đồng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã và đang tiếp tục giải ngân và chi tiêu trong năm nay nhưng lại quyết toán vào ngân sách năm trước hoặc năm sau. Các số liệu thu, chi ngân sách được hạch toán và quyết toán như vậy rõ ràng sẽ không cho những tính toán và kết luận tin cậy về kinh tế vĩ mô, về tác động và ảnh hưởng của tài chính quốc gia, nếu không nói đó là những kết luận méo mó.

Hai là, cấu trúc ngân sách của Việt Nam mang tính đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, phục vụ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, hoàn toàn không giống hoặc mang sắc màu cấu trúc ngân sách của quốc gia nào khác. Cơ cấu ngân sách của Việt Nam thể hiện rõ, ngân sách Trung ương đóng vai trò chủ đạo, vừa mang tính tập trung, vừa mang nặng tính bao cấp. Và điều đó sẽ đi liền với tính hiệu quả chưa thật sự cao, dù có tăng cường quản lý cũng chỉ hạn chế phần nào tính ít hiệu quả của NSNN. Quyết định NSNN và phân bổ NSNN cũng chính là thể hiện quyền lực. Tập trung cao trong quản lý và điều hành NSNN cũng có nghĩa là tập trung được quyền lực, dễ quản lý, dễ điều hành. Nhưng tập trung quá mức sẽ hạn chế và gây khó cho phân cấp cũng như phát huy quyền chủ động của các cấp chính quyền. Và tất yếu trong trường hợp này NSNN còn phải tiếp tục lồng ghép, tiếp tục phức tạp trong điều hành và khó có sự minh bạch thực sự trong cả quy trình ngân sách, đặc biệt là trong lập dự toán, phân bổ ngân sách, chấp hành NSNN, ngân sách địa phương.    

Từ hai đặc điểm cơ bản đó để khẳng định những quan điểm sửa đổi Luật NSNN lần này là bên cạnh việc kế thừa, phát huy những mặt tích cực của Luật NSNN 2002, cần đổi mới mạnh mẽ phương thức quản lý NSNN theo nguyên tắc kinh tế thị trường, đẩy mạnh cải cách hành chính và từng bước phù hợp thông lệ, chuẩn mực quốc tế.

Trong các nhóm vấn đề cần sửa đổi, nếu xem xét kỹ dự thảo thì chưa có nội dung nào thực sự căn bản làm chuyển biến thực chất công tác điều hành, quản lý ngân sách. Vấn đề lớn nhất, cơ bản nhất là bản chất thu, chi ngân sách và cơ cấu ngân sách cũng như phân cấp ngân sách cần phải được giải quyết căn bản hơn, sâu hơn, cụ thể hơn cho từng cấp ngân sách, từng loại địa phương. Đi sâu xem xét các nhóm vấn đề, các nội dung dự định sửa đổi, bổ sung thì thấy, tập trung chủ yếu vẫn là các điều khoản, chế tài, điều chỉnh các quy định về phương thức phân chia ngân sách. Trong đó có một số vấn đề đã phát hiện có vướng mắc hoặc vì lý do nào đó đã có quyết định xử lý từ lâu, nay cần hợp thức hóa trong Luật như thu xổ số kiến thiết và thu tiền sử dụng đất; mức huy động vốn của ngân sách cấp tỉnh theo khoản 2, Điều 8; việc ngân sách địa phương hỗ trợ các cơ quan Trung ương trên địa bàn, kinh phí chuyển nguồn... Một số không ít các vấn đề mang tính kỹ thuật trong quản lý điều hành ngân sách, không phải là những vấn đề lớn như thời gian lập dự toán, công khai ngân sách, chế độ giải trình...

Từ thực tế thi hành Luật NSNN 2002, đề nghị cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu, tập trung sửa đổi, bổ sung theo hướng xác định và quy định lại về NSNN và thu, chi NSNN. Cần xác định NSNN là các khoản thu, chi của Nhà nước. Nhưng phải là số thu đã được xác lập, kể cả các khoản thuế phải nộp, số chi đã thực tế có đầy đủ thủ tục hồ sơ thanh toán chứ không chỉ là số thực thu, hay số thực xuất quỹ Kho bạc Nhà nước.

Xác định mức độ tập trung và phân cấp trong quản lý điều hành ngân sách. Nội dung phân cấp cần rõ ràng hơn, sâu hơn. Không nên giao quyền và trách nhiệm về NSNN như nhau đối với các địa phương. Cần tính đến đặc thù của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo các tiêu chí quy mô, trình độ phát triển và nhiệm vụ chính trị mà địa phương đảm nhiệm để xác định trách nhiệm và giao quyền theo mức độ với từng nhiệm vụ cụ thể. Làm được như vậy sẽ giảm dần việc lồng ghép trong ngân sách, phát huy cao độ tính chủ động, sáng tạo của các cấp chính quyền và nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến ngân sách.

Cần có quan điểm mới trong nội dung và cơ cấu thu chi ngân sách. Xác định lại nội dung thu trong quan hệ thu nội địa và thu ngoài nước, thu từ hoạt động kinh tế... Thay đổi quan niệm về chi đầu tư phát triển và chi hành chính sự nghiệp trong cơ cấu chi ngân sách. Từ đó, sắp xếp và có ý thức trong việc chi cho giáo dục, y tế, chi cho khoa học công nghệ và phát triển nguồn lực.

Cụ thể, về phạm vi NSNN, các khoản thu phí, lệ phí nên nộp 100% vào NSNN; hoàn toàn không nên để lại và không nên ghi thu, ghi chi. Chi phí cho việc thu và quản lý phí, lệ phí được thanh toán, chi theo tiêu chuẩn, định mức chung, cân đối trong dự toán, có mục riêng. Việc thanh toán và cấp phát khoản kinh phí này không khó khăn gì. Thu về xổ số kiến thiết và tiền sử dụng đất nên tính là số thu NSNN.

Về huy động vốn của ngân sách cấp tỉnh cần chia làm ba loại ngân sách tỉnh là: tỉnh, thành phố có nguồn thu lớn, điều tiết nhiều về ngân sách và có nhu cầu chi đầu tư lớn như Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh... có thể cho phép huy động bằng 80% vốn đầu tư xây dựng cơ bản hàng năm từ NSNN cấp tỉnh. Các tỉnh, thành phố có thu điều tiết về ngân sách Trung ương khác được huy động tối đa 60%. Các tỉnh được bổ sung cân đối ngân sách từ ngân sách Trung ương chỉ được huy động tối đa 40%. Thay đổi lại quan niệm tính bội chi và kết dư của ngân sách địa phương.

Về bổ sung cân đối ngân sách và cơ chế điều hòa nguồn thu, số bổ sung ngân sách được xem xét tăng lên hàng năm tùy theo khả năng của NSNN cấp trên, nhưng phải bảo đảm nguyên tắc không vi phạm nguyên tắc ổn định tỷ lệ điều tiết đã được QH và HĐND quyết định. Luật sửa đổi lần này nên giữ quy định: phải giảm dần số bổ sung từ ngân sách cấp trên hoặc tăng dần tỷ lệ điều tiết về NSNN cấp trên sau mỗi thời kỳ ổn định ngân sách. Đồng thời, giữ cơ chế điều hòa nguồn thu.

Về thời gian lập dự toán, điều chỉnh dự toán, chỉnh lý quyết toán, thời gian lập dự toán nên quy định sớm hơn nữa, nên bắt đầu từ tháng 3 hàng năm. Thời gian điều chỉnh dự toán không nên quy định quá dài, đến tận 15.11 năm thực hiện thì ý nghĩa dự toán không còn. Thời gian chỉnh lý quyết toán nên sớm hơn, chỉ để thời gian đủ xử lý các chứng từ thanh toán chưa về kịp. Tuyệt đối không xử lý những quyết định thu, chi sau ngày kết thúc niên độ ngân sách.

Và cần có chương riêng về kế toán, kiểm toán và thông tin về ngân sách. Công tác hạch toán kế toán và thống kê về NSNN, quỹ ngân sách và ngân quỹ Nhà nước cần được quan tâm, quán triệt và chế tài trong suốt cả quy trình ngân sách từ lập dự toán ngân sách, chấp hành ngân sách đến quyết toán ngân sách, cần bao trùm trong toàn bộ công việc liên quan đến ngân sách, từ thu, tập trung nguồn thu, phân bổ, cấp phát, thanh toán, sử dụng và quyết toán ngân sách. Vì vậy, không nên để nội dung các quy định kế toán, kiểm toán và quyết toán NSNN trong một chương (Chương V). Bởi vì, kế toán, kiểm toán và quyết toán ngân sách là hai nội dung hoàn toàn khác nhau. Quyết toán ngân sách là công việc, là nội dung của quy trình ngân sách, còn kế toán và kiểm toán là công cụ quản lý tài chính-ngân sách, là phương tiện để kiểm kê, kiểm soát tài chính nhà nước, tài chính quốc gia. Luật đã có chương riêng về Dự toán ngân sách nhà nước (Chương IV); Chấp hành ngân sách nhà nước (Chương V). Do vậy, cần bố trí một chương riêng về Quyết toán ngân sách nhà nước (Chương VI) và một chương riêng trong Luật NSNN quy định các hành vi liên quan đến hạch toán kế toán, hạch toán thống kê và kiểm toán (có thể là Chương VII).

Về quyết toán NSNN, có rất nhiều nội dung công việc và hành vi cần được luật pháp chế tài, từ thẩm quyền, trách nhiệm trong lập, nộp, thẩm định và phê chuẩn quyết toán đến nội dung công việc, thời hạn, phương thức và trách nhiệm pháp lý về mức độ tin cậy của các thông tin trên báo cáo quyết toán. Đó không chỉ là trách nhiệm trước Nhà nước mà là trách nhiệm trước nhân dân, trước cử tri cả nước. Vì vậy, quyết toán NSNN phải là báo cáo tài chính được công khai, minh bạch. Và cần phải có những quy định về nguyên tắc và yêu cầu trong việc lập quyết toán NSNN.

Luật trong cuộc sống

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh
Quốc hội và Cử tri

Quy trình mới có thể rút ngắn thời gian ban hành luật từ 22 tháng xuống còn 10 tháng

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 đã tách bạch quy trình chính sách với việc lập Chương trình lập pháp hàng năm, phân định rõ hơn quy trình xây dựng chính sách và quy trình soạn thảo. Với tinh thần đó, đối với các luật, pháp lệnh cần thực hiện quy trình chính sách sẽ gồm 4 bước cơ bản. Trên cơ sở chính sách được thông qua sẽ tiến hành soạn thảo theo quy trình 7 bước, trong đó đơn giản một số thủ tục hoặc một số loại hồ sơ, tài liệu. Quy trình này có thể rút ngắn thời gian ban hành luật từ 22 tháng xuống còn 10 tháng.

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các nghị định hướng dẫn
Luật trong cuộc sống

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các nghị định hướng dẫn

Theo Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật (Bộ Tư pháp), trong chương trình làm việc Kỳ họp bất thường lần thứ Chín, Quốc hội sẽ xem xét, biểu quyết thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi). Để bảo đảm tính thống nhất và khả thi, Bộ Tư pháp đang gấp rút hoàn thiện ba nghị định hướng dẫn thi hành Luật.

Lòng dân hóa thân vào quyết sách của Quốc hội
Quốc hội và Cử tri

Lòng dân hóa thân vào quyết sách của Quốc hội

ThS.Nguyễn Vân Hậu

Trong nhiều quốc kế dân sinh được quyết nghị tại Kỳ họp thứ Tám, các chính sách về bảo hiểm y tế (BHYT), bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân, quan tâm đến người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn... đã khẳng định bản chất ưu việt của chế độ ta luôn đặt lên hàng đầu mục tiêu bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Các quyết sách được lòng dân của Quốc hội chính là sự hóa thân của lòng dân, của ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của Nhân dân, là thước đo giá trị của nền dân chủ trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Đức Tâm
Luật trong cuộc sống

Nâng quy mô vốn đầu tư công của dự án quan trọng quốc gia từ 30.000 tỷ đồng trở lên

Luật Đầu tư công năm 2024 đã nâng quy mô vốn đầu tư công của dự án quan trọng quốc gia từ 30.000 tỷ đồng trở lên; quy mô của dự án nhóm A, nhóm B và nhóm C với quy mô gấp 2 lần so với các quy định hiện hành. Phân cấp thẩm quyền cho người đứng đầu bộ, cơ quan trung ương quyết định chủ trương đầu tư dự án nhóm A do cơ quan, tổ chức mình quản lý với quy mô vốn dưới 10.000 tỷ đồng.

Ảnh minh họa
Luật trong cuộc sống

Đơn giản hóa thủ tục hành chính ngay từ khâu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Đây là một trong những nội dung nêu trong Công điện số 131/CĐ-TTg về việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm phiền hà, chi phí tuân thủ cho người dân, doanh nghiệp ngay từ khâu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký ban hành ngày 11.12 vừa qua.

Bảo đảm sử dụng đất công bằng, công khai, hiệu quả
Luật trong cuộc sống

Bảo đảm sử dụng đất công bằng, công khai, hiệu quả

Tạo hành lang pháp lý an toàn, đầy đủ, thuận lợi, ổn định, khả thi cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống người dân, nhất là các quy định chuyển tiếp, bảo đảm điều kiện tiếp cận, sử dụng đất và nguồn lực khác công bằng, công khai, hiệu quả. Đây là một trong những nội dung quyết nghị của Quốc hội nêu trong Nghị quyết về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội.

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị giải trình làm rõ những vấn đề Đoàn giám sát nêu
Luật trong cuộc sống

Tiếp tục sửa đổi các luật liên quan để gỡ khó cho thị trường bất động sản

Sau khi làm việc với 12 tỉnh, thành phố, 8 bộ, ngành, Đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm 2023” đã có cuộc làm việc với Chính phủ vào chiều 13.9.

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị
Luật trong cuộc sống

Cần cơ chế phù hợp, xử lý dứt điểm các dự án đang đình trệ

Cơ chế giải quyết phù hợp, xử lý dứt điểm đối với các dự án bất động sản gặp khó khăn, vướng mắc pháp lý, đình trệ do triển khai thực hiện, nhiều dự án kéo dài, pháp luật qua các thời kỳ có nhiều thay đổi. Đây là vấn đề được các thành viên Đoàn giám sát của Quốc hội, đại diện các bộ, ngành tập trung phân tích tại cuộc làm việc với Chính phủ về quản lý thị trường bất động sản, phát triển nhà ở xã hội.

Tài liệu của HĐND, UBND cấp xã phải nộp vào lưu trữ lịch sử
Luật trong cuộc sống

Tài liệu của HĐND, UBND cấp xã phải nộp vào lưu trữ lịch sử

Tại họp báo công bố Lệnh của Chủ tịch Nước về các luật được thông qua tại Kỳ họp thứ Bảy, Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước Đặng Thanh Tùng nêu rõ, tài liệu của HĐND, UBND cấp xã phải nộp vào lưu trữ lịch sử. Quy định này xuất phát từ thực tế khối lượng hồ sơ, tài liệu được lưu trữ tại cấp xã rất lớn, trong khi đó, nguồn lực về con người, cơ sở vật chất dành cho công tác này rất hạn chế, dẫn đến việc lưu trữ tại nhiều địa phương không bảo đảm.

Tác động tích cực đến thị trường bất động sản
Luật trong cuộc sống

Tác động tích cực đến thị trường bất động sản

Theo Luật sư HOÀNG TUẤN VŨ, Công ty Luật TNHH Tuệ Anh, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội, Luật Đất đai năm 2024 có nhiều quy định thiết thực, hợp lý, chắc chắn khi có hiệu lực thi hành sẽ tác động đáng kể đến thị trường bất động sản, đáp ứng mong đợi của chính quyền, doanh nghiệp và người dân.

Quy định chuyển tiếp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất
Luật trong cuộc sống

Quy định chuyển tiếp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất

Luật Đất đai (sửa đổi) được Quốc hội Khóa XV thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ Năm được xem là bước tiến lớn trong việc hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý và sử dụng đất đồng bộ; đồng thời, khắc phục tình trạng lãng phí, hoang hóa, ô nhiễm, suy thoái và những tồn tại, vướng mắc về quản lý và sử dụng đất do lịch sử để lại. Đặc biệt, khi Luật có hiệu lực, những quy định chuyển tiếp vẫn bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho người sử dụng đất theo hướng có lợi nhất.

Bảo đảm quyền lợi hơn cho người dân có đất bị thu hồi
Luật trong cuộc sống

Bảo đảm quyền lợi hơn cho người dân có đất bị thu hồi

Luật Đất đai (sửa đổi) được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ Năm, Quốc hội Khóa XV được xem là đạo luật quan trọng, bởi với nhiều điểm mới, Luật sẽ tác động và ảnh hưởng đến hầu hết mọi mặt của đời sống xã hội, nhất là việc bảo đảm quyền lợi hơn cho người dân có đất bị thu hồi. Theo đó, kỳ vọng khi Luật chính thức có hiệu lực và đi vào cuộc sống, cả người dân, doanh nghiệp, các tổ chức khác và Nhà nước đều được hưởng lợi.

Giảm tỷ lệ cổ phần của cổ đông lớn có giảm tỷ lệ sở hữu chéo ngân hàng không?
Luật trong cuộc sống

Giảm tỷ lệ cổ phần của cổ đông lớn có giảm tỷ lệ sở hữu chéo ngân hàng không?

Để ngăn chặn tình trạng sở hữu chéo, gây nhiều hệ lụy cho hệ thống ngân hàng, dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) cần tiếp tục hoàn thiện nhiều nội dung. Trong đó, có các quy định về những cá nhân, tổ chức là cổ đông của ngân hàng; công bố thông tin; quản trị ngân hàng; cơ chế thanh tra, giám sát…