Theo đó, các mục tiêu cụ thể của Chương trình là trong giai đoạn 2026 - 2030, phấn đấu bảo đảm kinh phí chi thường xuyên ngân sách cấp tỉnh cho hoạt động khoa học và công nghệ hàng năm, bằng hoặc cao hơn mức Trung ương giao; Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đóng vai trò quan trọng phát triển công nghiệp mũi nhọn, trọng tâm là các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến, chế tạo, góp phần quan trọng vào cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiện đại, đưa Bắc Ninh trở thành thành phố có nền công nghiệp hiện đại, công nghệ cao vào năm 2030.
Tham gia tích cực, hiệu quả và tận dụng lợi thế thương mại, cơ hội của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4. Đến năm 2030, tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo đạt tối thiểu 45%.
Tỷ trọng đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GRDP của tỉnh bình quân giai đoạn 2026 - 2030 đạt trên 50%; Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo góp phần quan trọng trong xây dựng, phát triển giá trị văn hóa, xã hội, con người Bắc Ninh; Cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển của tỉnh. Đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,78.
Đến năm 2030, Bắc Ninh thuộc nhóm các tỉnh dẫn đầu về trình độ sáng tạo, bảo hộ và khai thác quyền sở hữu trí tuệ. Tài sản trí tuệ mới của cá nhân, tổ chức trong tỉnh gia tăng cả về số lượng và chất lượng: Số lượng đơn đăng ký sáng chế và văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 25 - 30%/năm; số lượng đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp tăng trung bình 35 - 40%/năm; số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu tăng trung bình 20 - 25%/năm; số lượng đơn đăng ký bảo hộ giống cây trồng tăng trung bình 12 - 14%/năm; tỷ lệ sáng chế được khai thác thương mại đạt 90 - 100% số sáng chế được cấp văn bằng bảo hộ. Từ đó, góp phần cải thiện vượt bậc các chỉ số về sở hữu trí tuệ của Việt Nam trong chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII).
Đến năm 2030, nhân lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (quy đổi toàn thời gian) đạt 15 người trên một vạn dân; trong đó chú trọng phát triển nhân lực trong khu vực doanh nghiệp; Hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ được cơ cấu lại gắn với định hướng ưu tiên phát triển của tỉnh và quốc gia, ngành và lĩnh vực theo hướng tự chủ, liên kết, tiếp cận chuẩn mực quốc tế. Phấn đấu đến năm 2030, có 1 - 3 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng trong nước và khu vực.
Phấn đấu đến năm 2030, tăng thêm 6 doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo so với năm 2025. Tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt 40% trong tổng số doanh nghiệp khoa học và công nghệ; Tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ của tỉnh góp phần phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI) đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế mạnh mẽ về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng.
Tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 30% GRDP. Hoàn thành xây dựng chính phủ số, thuộc nhóm địa phương đứng top đầu cả nước về chính phủ điện tử kinh tế số; chỉ số hiệu quả môi trường (EPI) đạt trên 55. Chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,78.