Kịp thời tham mưu ban hành các chính sách chưa có tiền lệ
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, ngay từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XV, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua các kế hoạch 5 năm giai đoạn 2021 – 2025 về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, đầu tư công trung hạn, cơ cấu lại nền kinh tế, quy hoạch các cấp, các ngành và địa phương, các cơ chế, chính sách đặc thù của một số địa phương. Đây là những quyết sách quan trọng cụ thể hóa định hướng phát triển kinh tế- xã hội của Đảng nêu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và cũng là căn cứ quan trọng để các cấp, các ngành, các địa phương tổ chức triển khai thực hiện trong thời gian tới.
Thực hiện mục tiêu xây dựng Chính phủ kiến tạo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi, ban hành nhiều đạo luật quan trọng với tư duy và tầm nhìn đổi mới, tháo gỡ các rào cản, khó khăn, vướng mắc, tăng cường phân cấp, phân quyền, phân định rõ trách nhiệm, thẩm quyền cho các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương, tạo quyền chủ động cho các cấp, các ngành trong đầu tư sản xuất kinh doanh để huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội cho đầu tư, phát triển, nhất là các cấp, các ngành, các lĩnh vực và địa phương cũng như là cả vùng và cả nước. Mặc dù vậy, quá trình triển khai thực hiện vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tiếp tục nghiên cứu, lắng nghe, tiếp thu ý kiến đề xuất để kịp thời sửa đổi, tạo điều kiện tốt nhất cho quá trình thực hiện.
Với sự đồng ý của Quốc hội, Bộ đang phối hợp với các Bộ, cơ quan trung ương, địa phương nghiên cứu, đề xuất sửa đổi các khó khăn, vướng mắc này thông qua xây dựng 1 luật sửa 10 luật sẽ trình Quốc hội trong thời gian tới. Trong đó có 6 luật liên quan đến đầu tư sản xuất kinh doanh, xây dựng đề án thí điểm tách công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng ra khỏi dự án đầu tư cùng với các quy định thực hiện để trình Quốc hội xem xét trong kỳ họp tới.
Trước tác động của dịch bệnh Covid-19, ngay từ đầu năm 2020, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ động chia sẻ, lắng nghe ý kiến của các hiệp hội, doanh nghiệp, các tổ chức, chuyên gia trong nước và quốc tế tổ chức khảo sát, điều tra, phối hợp với các cơ quan, địa phương liên quan để kịp thời tham mưu ban hành các chính sách chưa từng có tiền lệ để kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp, người dân, người lao động giảm chi phí, duy trì sản xuất, khắc phục khó khăn, ổn định đời sống, sớm trở lại hoạt động khi dịch bệnh được kiểm soát. Đóng góp chung vào kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2020 và 10 tháng đầu năm 2021 của cả nước, các chính sách đã ban hành nhằm kịp thời hỗ trợ cho người dân, người lao động, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, hạn chế tác động đứt gãy của chuỗi cung ứng chuỗi sản xuất kinh doanh song thời gian dài bị ảnh hưởng của năm 2021, sớm khắc phục những khó khăn, thách thức, đưa đất nước phục hồi, thích ứng và phát triển bền vững trong tương lai. Thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2021 – 2025 và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021 – 2030 mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang nghiên cứu, tham mưu cho Chính phủ xây dựng chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội để trình Quốc hội vào kỳ họp tới. Đây là một vấn đề lớn, phức tạp, quan trọng của đất nước, tác động toàn diện tới nền kinh tế, đòi hỏi kết hợp giữa thực tiễn trong và ngoài nước, phù hợp với mục tiêu phát triển và khả năng thực hiện của đất nước nên Bộ Kế hoạch và Đầu tư mong tiếp tục nhận được những ý kiến đề xuất sâu sắc tâm huyết, trách nhiệm của các đại biểu Quốc hội để hoàn thiện nội dung Chương trình, trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định và sớm phát huy hiệu quả trong cuộc sống.
Kinh nghiệm quốc tế trong triển khai các gói hỗ trợ
Các đại biểu Ma Thị Thúy (Tuyên Quang); Nguyễn Hồng Sơn (Hải Dương); Âu Thị Mai (Tuyên Quang); Trần Quang Minh (Quảng Bình)... chất vấn về nội dung: Kinh nghiệm quốc tế trong triển khai các gói hỗ trợ và việc thực hiện ở Việt Nam; tiến độ triển khai tuyến đường cao tốc nối Tuyên Quang - Hà Giang; xây dựng chỉ tiêu GDP; giải pháp đẩy nhanh tiến độ đầu tư công, vốn ODA; giải pháp để ưu tiên đầu tư phát triển các vùng đang khó khăn;...
Về kinh nghiệm triển khai các gói hỗ trợ của các nước trên thế giới, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, các nước thường đưa ra các gói hỗ trợ rất lớn, quyết định rất nhanh, bất chấp kỷ luật tài chính, chấp nhận tăng nợ công... qua đó khôi phục kinh tế rất nhanh.
Về tài khóa các nước đều tăng cho y tế, hỗ trợ các hộ gia đình khó khăn, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, cấp phát tiền mặt, miễn giảm thuế phí đối với những lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh; đầu tư cho hạ tầng.... Về tín dụng, nhìn chung các nước hỗ trợ lãi suất, nới lỏng quy định cho vay...
Đối với Việt Nam, gói hỗ trợ phải có quy mô đủ lớn, thời gian phù hợp, bảo đảm kinh tế vĩ mô, kết hợp linh hoạt chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ; gắn kết chặt chẽ với kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, chính sách tái cơ cấu nền kinh tế; tính toán đến cả những tác động trong ngắn hạn, dài hạn; hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm khả thi, hiệu quả... để nền kinh tế phục hồi, phát triển nhanh theo tinh thần thích ứng an toàn, linh hoạt, phòng chống dịch hiệu quả, bảo đảm thực hiện mục tiêu tăng trưởng trong giai đoạn 2020-2025 đã đề ra.
GDP tăng sẽ giải quyết được nhiều mục tiêu...
ĐBQH Nguyễn Ngọc Sơn (Hải Dương) chất vấn, trong các chỉ tiêu kinh tế xã hội năm 2022 mà Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp này, chỉ tiêu tốc độ tăng GDP đạt 6 - 6,5 %, tốc độ tăng CPI bình quân khoảng 4%, tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước so với GDP khoảng 4%. Đề nghị Bộ trưởng cho biết, khi xây dựng những chỉ tiêu này đã dự báo hết nguy cơ gia tăng tỷ lệ nhập khẩu lạm phát chưa, nhất là những hậu quả nặng nề do tác động của đợt dịch Covid-19 lần thứ tư gây ra; đồng thời trong tỷ lệ bội chi nêu trên đã bao gồm những gói hỗ trợ phục hồi kinh tế mà Chính phủ dự kiến trình Quốc hội trong thời gian tới hay chưa?
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, tất cả những chỉ tiêu đưa ra Bộ đã căn cứ vào tình hình thực tiễn, có tính đến khả năng kiểm soát được dịch bệnh vào quý IV, tức là trong tháng 10 đến tháng 12, cũng như khả năng phục hồi của nền kinh tế. Khi chúng ta mở cửa trở lại, các khu vực xuất khẩu, dịch vụ đầu tư sẽ có đóng góp rất lớn cho tăng trưởng và lạm phát được kiểm soát.
Về chương trình đầu tư công có làm tăng thêm bội chi và chương trình phục hồi này đã tính bội chi này chưa, Bộ trưởng cho biết là chưa tính vào. Nếu như được Quốc hội thông qua, theo tính toán của Bộ sẽ làm tăng thêm bội chi khoảng 1% và điều đó có thể kiểm soát được. "Khi kinh tế phát triển, quy mô của nền kinh tế tăng lên, GDP tăng lên thì chúng ta giải quyết được rất nhiều mục tiêu, vừa phát triển được kinh tế, vừa giải quyết được việc làm, vừa tận dụng cơ hội. Tuy nhiên GDP lớn lên thì các chỉ số về nợ công và bội chi sẽ giảm đi và cũng không có tác động lớn đến những chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của chúng ta."- Bộ trưởng Dũng nói.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế liên quan đến giải ngân vốn đầu tư công
Đại biểu Âu Thị Mai (Tuyên Quang) chất vấn, theo báo cáo của Chính phủ đến ngày 31.10.2021 tỉ lệ giải ngân vốn đầu tư công cũng như việc giải ngân vốn ODA còn đạt thấp so với kế hoạch. Đề nghị, Bộ trưởng cho biết nguyên nhân của việc giải ngân chậm và giải pháp gì để thúc đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công năm 2021 và những năm tiếp theo. Giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy giải ngân vốn ODA?
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, giải ngân đầu tư công là một vấn đề được rất nhiều ĐBQH, cử tri cả nước quan tâm và cũng đã được nêu tại rất nhiều tại các kỳ họp của Quốc hội. Thế nhưng các vấn đề vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để và tỉ lệ giải ngân vẫn rất thấp, đặc biệt là năm nay. Theo Bộ trưởng, tình trạng này có cả nguyên nhân khách quan, chủ quan.
Thứ nhất, do công tác chuẩn bị dự án rất kém, chất lượng không cao, mang tính hình thức nhiều, sau khi được chấp thuận, chủ trương thì mới bắt đầu thực hiện một cách thực tế và lúc đó lại mất thời gian để "điều chỉnh đi, điều chỉnh lại", mất rất nhiều thời gian.
Thứ hai, về giải phóng mặt bằng. Đây cũng là câu chuyện muôn thuở mà chưa thể giải quyết ngay được nếu các quyết định của Luật Đất đai không giải quyết triệt để thì công tác giải phóng mặt bằng không giải quyết được. Thực tế cho thấy, quá trình thực hiện bị vướng mắc về nguồn gốc đất đai, giá đền bù, tranh chấp, khiếu kiện, ý thức người dân, các công tác đấu thầu, không được bố trí vốn đối ứng …
Riêng năm 2021, theo Bộ trưởng có những nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng của dịch Covid-19, phải giãn cách xã hội ảnh hưởng nhiều các vấn đề về nguyên, nhiên vật liệu, nhân công, thiếu lao động, chi phí tăng cao và các nguyên vật liệu cũng tăng cao. Đây cũng là năm đầu thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn.
Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng thẳng thắn nhìn nhận, khâu tổ chức thực hiện hiện nay vẫn là khâu yếu, toàn bộ vấn đề từ thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, tất cả các nhóm A,B, C đã phân cấp cho địa phương, thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn đã phân cấp cho địa phương. Điều chỉnh chủ trương đầu tư đã phân cấp cho các Bộ, ngành, địa phương. Phê duyệt, giao vốn chi tiết điều chỉnh kế hoạch cũng là phân cấp cho các bộ, ngành, địa phương.
Bộ trưởng cho biết, Bộ Kế hoạch Đầu tư hiện nay chỉ còn có ba chức năng chính. Thứ nhất là xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn, đảm bảo đúng chiến lược của 15 và kế hoạch 5 năm. Thứ hai là, xây dựng các nguyên tắc, tiêu chí để báo cáo Quốc hội cho kế hoạch 5 năm. Thứ ba, xây dựng thêm nguyên tắc trong cái kế hoạch hàng năm. Còn lại tất cả các vấn đề: lựa chọn dự án, phê duyệt dự án, thẩm định phương án điều chỉnh dự án kéo dài hay không, giao vốn chi tiết đã giao triệt để, phân cấp triệt để cho tất cả các Bộ, ngành, địa phương. Đến nay, Thủ tướng chỉ giao vốn một lần ngay từ năm trước cho các Bộ, ngành, địa phương.
Về giải pháp trong thời gian tới, Bộ trưởng cho rằng, các công tác này cần phải thực hiện quyết liệt hơn, nghiêm túc hơn các nghị quyết của Chính phủ, đặc biệt là Nghị quyết 63 để đẩy nhanh tiến độ giải ngân. Cùng với đó, là trách nhiệm người đừng đầu phải làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, giải phóng mặt bằng để đấu thầu phải làm nhanh hơn. Tổ công tác đặc biệt của Thủ tướng cũng phải phát huy tinh thần để hướng dẫn, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc kịp thời.
Bộ cũng đang rà soát lại vướng mắc trong sửa các Luật sắp tới, tiếp tục hoàn thiện thể chế liên quan đến giải ngân vốn đầu tư công. Tuy nhiên, các địa phương và các Bộ, ngành phải nghiêm túc thực hiện theo đúng quy định thì mới giải quyết tận gốc của vấn đề, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ: Xác định nguyên nhân chủ quan, khách quan, cốt lõi chậm giải ngân đầu tư công
Về chậm giải ngân đầu tư công, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ yêu cầu "phải xác định nguyên nhân chủ quan, khách quan, cốt lõi và chúng ta phải đột phá ở đâu".
Năm 2020, giải ngân đầu tư công đạt kỷ lục 98%. 10 tháng đầu năm 2021, tỷ lệ giải ngân đầu tư chưa được 50%. "Cùng môi trường thể chế như nhau nhưng sao đơn vị giải ngân cao, đơn vị giải ngân thấp. Doanh nghiệp, người dân đều mong có gói kích thích mới, trong khi tiền chúng ta có còn chưa tiêu hết, năng lực hấp thu vốn của chúng ta như thế nào", Chủ tịch Quốc hội nêu. Trong đó, 16.000 tỷ đồng của ba chương trình mục tiêu quốc gia, theo Chủ tịch Quốc hội, đến nay chưa phân bổ được một đồng, 86.000 tỷ đồng của các địa phương cũng chưa phân bổ.
"Nếu chúng ta không làm rõ, dù Quốc hội chất vấn xong, có Nghị quyết, thì vẫn chưa giải quyết được vấn đề. Trách nhiệm ở đâu phải làm rõ, tình hình kiểm tra giám sát giải quyết thế nào, không thể nói chung chung là vướng mắc", Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nói và đề nghị các cấp, các ngành, các bộ phải làm rõ câu chuyện này.
Còn tình trạng thiếu trách nhiệm khi lập kế hoạch không sát
Đối với tranh luận của ĐBQH Tạ Văn Hạ (Quảng Nam) về công tác giải ngân vốn đầu tư công chậm trễ, có nguyên nhân chủ quan ở khâu tổ chức thực hiện và việc làm sao để chấn chỉnh, khắc phục ngay tình trạng này bởi nếu để vướng mắc tồn tại nhiều năm như thế sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển của nền kinh tế, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định, vấn đề hiện nay không nằm ở hệ thống luật pháp, tất cả liên quan đến đầu tư công đến nay rất rõ ràng và đầy đủ trên tinh thần phân cấp triệt để cho các địa phương, không còn nội dung nào phải lên đến Trung ương. Ngay bản thân bộ quản lý, tổng hợp chung và để giúp cho Chính phủ, giúp cho Quốc hội quản lý chung thì cũng trên nền tảng IT. Hiện nay trên hệ thống hết chứ không gặp nhau làm gì cả, không có giấy tờ gì. Tất cả các bộ, ngành, địa phương lập kế hoạch xong đưa lên hệ thống là Bộ kiểm soát được ngay. Nếu đúng thì Bộ tổng hợp báo cáo Thủ tướng. Không phù hợp thì Bộ yêu cầu các tỉnh làm lại. Như vậy thể chế đã rất thông thoáng, đã rất thuận lợi cho các địa phương.
Vậy sự chậm trễ nằm ở đâu? Thứ nhất, ở khâu tổ chức thực hiện. Như Chủ tịch Quốc hội vừa nêu: Tại sao cùng một thể chế mà có những tỉnh hiện nay đã giải ngân hơn 100% vốn, vượt cả con số được giao, trong khi có những tỉnh mới giải ngân 18%, có tỉnh 20 - 30%. Hết tháng 10, tỷ lệ giải ngân chỉ mới đạt 55,8% trên cả nước. Đến cuối năm nay, dự kiến chỉ giải ngân được 80-85%. Đây là thực tế đòi hỏi các địa phương, các bộ, ngành phải nhìn nhận thật nghiêm túc để giải quyết vấn đề. Còn vấn đề gì phát sinh, Bộ sẽ rà soát để sửa đổi, bổ sung trong dự án luật sửa các luật trong tháng 12 tới.
Thứ hai, do công tác lập kế hoạch không sát. Các đơn vị, địa phương đề xuất nguồn, nhu cầu vốn rất lớn nhưng trên thực tế lại không thể giải ngân. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng có một phần trách nhiệm vì nể nang, làm không hết trách nhiệm khi tổng hợp và trình lên Chính phủ. Nếu số vốn không sát thực tiễn quá lớn, sẽ gây áp lực lên tỷ lệ giải ngân, phải điều chuyển vốn, trả lại vốn, hủy vốn… Vấn đề này Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin nhận một phần trách nhiệm trong công tác rà soát kế hoạch vốn mà các bộ, ngành, các địa phương trình lên.
Sẽ rà soát các dự án ODA kém hiệu quả, lãng phí
Chất vấn Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ĐBQH Trần Quang Minh (Quảng Bình) cho biết, việc sử dụng vốn đầu tư phát triển và đặc biệt là sử dụng vốn ODA trong thời gian vừa qua chưa hiệu quả, lãng phí, thậm chí là vị phạm pháp luật. Vậy thời gian qua Bộ đã thực hiện nhiệm vụ quản lý trong vấn đề này như thế nào, các giải pháp cho thời gian tới ra sao? Vấn đề nữa là hiện nay, chênh lệch trong phát triển giữa các tỉnh, thành trong cả nước ngày càng rõ rệt, các tỉnh khó khăn đang ngày càng khó theo kịp nhất là trong vấn đề thu hút vốn đầu tư, nhất là so với các tỉnh, thành có lợi thế, tiềm lực và cơ chế đặc thù… Vậy Bộ trưởng đã có định hướng, tham mưu cho Chính phủ các giải pháp thế nào để ưu tiên cho các tỉnh và vùng đang khó khăn có thể thu hút vốn đầu tư?
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho rằng, đối với một số dự án ODA, ngoài việc phải thực hiện các thủ tục theo quy trình, thủ tục và pháp luật trong nước còn phải làm thêm các quy trình, thủ tục của nhà tài trợ. Như vậy, phải làm đồng thời hai việc, mà mỗi việc lại mất rất nhiều thời gian, nhất là thời gian trong giãn cách vừa qua thì chỉ một thay đổi nhỏ như thay đổi tên, địa giới, phạm vi diện tích… cũng rất khó thực hiện.
Tiếp đó là vấn đề về lao động và chuyên gia lao động. Lao động ở các dự án này phải có giấy phép, chuyên gia thì phải có xác nhận tư cách chuyên gia. Những “động tác” này đều phải làm các thủ tục xong mới làm được. Thế nên các dự án ODA hiện nay đang giải ngân rất chậm. Thêm vào đó, các nguyên nhân như khâu nhập khẩu máy móc gặp khó khăn hay chuyên gia lao động bị cách ly, không được di chuyển giữa địa phương này đến địa phương kia… càng khiến tốc độ giải ngân các dự án có vốn ODA thấp. Ngoài ra, có một số dự án ODA do triển khai, lựa chọn và tổ chức thực hiện chưa tốt dẫn đến lãng phí.
Thời gian tới, Bộ sẽ cùng với các ngành, địa phương rà soát lại những dự án nào có vướng mắc có thể tháo gỡ nhằm thúc đẩy tiến độ, đảm bảo hiệu quả. Những dự án nào không thực sự hiệu quả, không còn phù hợp sẽ bàn với nhà tài trợ để "đóng" các dự án này, không để kéo dài và lãng phí.
Về các giải pháp ưu tiên cho các tỉnh, địa phương có điều kiện phát triển tốt hơn, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng phải giải quyết một số vấn đề. Thứ nhất, quy hoạch phải thật tốt. Hiện nay, chúng ta đang lập quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng. Trên cơ sở đó sẽ đang xây dựng các quy hoạch cấp tỉnh. Thứ hai, vấn đề hạ tầng cần được đầu tư đồng bộ và nâng cao sức cạnh tranh. Thứ ba, phải chuẩn bị sẵn quỹ đất, mặt bằng. Những vấn đề về nguồn lực, môi trường đầu tư, cải cách thủ tục hành chính chúng ta có thể làm được và có thể tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư cho các địa phương, vùng miền kém phát triển, từ đó có thể cân bằng phát triển hơn giữa các vùng miền... Liên quan đến các địa phương, các vùng miền có lợi thế cạnh tranh, có thể phát triển nhanh hơn, chúng tôi sẽ báo cáo Chính phủ để trình Quốc hội xem xét nghiên cứu có cơ chế sách chung, riêng cho từng vùng, từng địa phương.
Tách riêng trách nhiệm của Trung ương và địa phương
Ngoài nguyên nhân do dịch bệnh, ĐBQH Vũ Thị Lưu Mai (TP. Hà Nội) đề nghị Bộ trưởng cho biết trách nhiệm trong chuyển nguồn vốn đầu tư công thời gian qua. Khi đi giám sát tại địa phương, đại biểu được nghe trách nhiệm đó thuộc về Trung ương, song khi làm việc với Bộ chủ quản thì lại được nghe nguyên nhân đó thuộc về địa phương, đề nghị Bộ trưởng làm rõ vấn đề này.
Về nội dung trách nhiệm trong chuyển nguồn vốn đầu tư công, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng, dự án giao cho cơ quan nào thì cơ quan đó phải chịu trách nhiệm. Dự án của địa phương thì địa phương phải chịu trách nhiệm, dự án của Trung ương thì Trung ương phải chịu trách nhiệm. Còn dự án Trung ương có cấu phần liên quan đến địa phương và đã trao cho địa phương thì địa phương phải chịu trách nhiệm.
Trong Đề án tách bồi thường, hỗ trợ tái định cư ra khỏi dự án đầu tư công sắp tới sẽ trình Quốc hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ trình riêng phần giải phóng mặt bằng giao cho địa phương và địa phương có thể dùng cả ngân sách của trung ương để thực hiện, hoặc có thể dùng cả ngân sách địa phương để thực hiện giải phóng mặt bằng. Như vậy sẽ linh hoạt, chủ động và nhanh hơn. Bộ trưởng cho rằng nếu tách được và giao hẳn cho địa phương thì sẽ phân biệt rõ ràng trách nhiệm Trung ương hay địa phương đối với dự án của Trung ương trên địa bàn.
Ngăn tình trạng người nước ngoài núp bóng mua và chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ĐBQH Vũ Trọng Kim (Nam Định) tham gia tranh luận sau khi Bộ trưởng đề cập đến "đất không sạch" gây khó khăn cho đầu tư, phát triển. Đại biểu cho biết, tại Kỳ họp thứ Chín, Quốc hội Khóa XIV đã chất vấn có 162.000 ha do người Trung Quốc sở hữu trên toàn đất nước, trong đó có 63.000 ha đất biên giới, ven biển. Báo chí, người dân, cử tri có thắc mắc rằng người Việt Nam tiếp tục núp bóng mua cho người nước ngoài và chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Việc này vi phạm Luật Đất đai, vì là người mua dùm, mua thay. Việc này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiến hành giám sát, kiểm tra thế nào? Đại biểu đề nghị Chính phủ đề xuất sửa Luật Đất đai, Luật Đầu tư thế nào để khắc phục tình trạng này, bởi "cứ đầu tư thế này thì không đảm bảo cho quá trình phát triển, sử dụng đất đai tới đây".
Trả lời ý kiến của đại biểu, về tình trạng chuyển nhượng quyền sử dụng đất núp bóng, tức là không chính danh, không đúng đối tượng vì mua giúp, mua thay, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng thừa nhận, đầu thư núp bóng hiện nay đang là một vấn đề rất lớn và thực sự chúng tôi cũng chưa có điều kiện để nắm rõ một cách chính xác được tình hình thực tế ở các địa phương này ra sao. Với trách nhiệm của mình, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ nghiên cứu để tham mưu cho Chính phủ có chính sách phù hợp với quy định của pháp luật để quản lý đất đai mà hiện nay các nhà đầu tư nước ngoài núp bóng dưới danh nghĩa của các doanh nghiệp, cá nhân của Việt Nam để thâu tóm, chiếm giữ. "Chúng tôi sẽ tìm hiểu, nghiên cứu và báo cáo lại với Chính phủ và Quốc hội sau" - Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định.
Hỗ trợ cấp bù lãi suất cho các doanh nghiệp vay trong một số lĩnh vực ưu tiên
Đại biểu Nguyễn Minh Tâm (Quảng Bình) chất vấn, với vai trò là cơ quan tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong hoạch định phát triển kinh tế xã hội và đặc biệt để thực hiện thành công mục tiêu kép, đại biểu rất đồng tình với chương trình phục hồi kinh tế sau dịch như Bộ trưởng vừa nêu. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu, đề nghị Bộ trưởng cho biết những chính sách và giải pháp cụ thể để phục hồi và phát triển kinh tế trong thời gian tới có hiệu quả?
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, để thực hiện mục tiêu trên Bộ đã xây dựng 5 nhóm giải pháp như sau:
Thứ nhất, tập trung mở cửa nền kinh tế gắn với phòng, chống dịch và thực hiện Nghị quyết 128 một cách thắt chặt an toàn, có lộ trình phù hợp với chiến lược phòng, chống dịch và khả năng tiêm vaccine, thuốc điều trị, trang thiết bị y tế. Tăng tính chủ động cho doanh nghiệp để duy trì hoạt động liên tục.
Thứ hai, tập trung hỗ trợ an sinh xã hội và tạo việc làm, theo đó hỗ trợ cho các đối tượng chính sách, người lao động, đào tạo, đào tạo lại lao động, kết nối việc làm, phát triển thị trường lao động, chính sách dạy nghề, nhà ở xã hội...
Thứ ba, là hỗ trợ phục hồi cho doanh nghiệp. Vừa qua, doanh nghiệp bị ảnh hưởng tổn thương rất nhiều và khả năng chống chịu đã bị bào mòn rất nhiều, đặc biệt và một số lĩnh vực bị tác động mạnh mẽ. Về các chính sách chung, Bộ sẽ xem xét để trình Quốc hội, các cơ quan có thẩm quyền để cho phép kéo dài các chính sách về miễn, giảm, gia hạn các loại thuế, phí, lệ phí. Bên cạnh đó, hỗ trợ cấp bù lãi suất cho các doanh nghiệp vay trong một số lĩnh vực ưu tiên, có một số các chính sách riêng đối với ngành và lĩnh vực chế biến nông, lâm sản, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, chuyển đổi số...
Thứ tư, là phát triển kết cấu hạ tầng, khuyến khích PPP để thực hiện các hạ tầng này; đầu tư công tập trung cho hạ tầng chiến lược và những công trình trọng điểm quốc gia mang tính động lực lớn lan tỏa, kết nối để phát triển bền vững trong thời gian tới, công trình an ninh nguồn nước, an toàn hồ, đập, ứng phó với biến đổi...
Thứ năm, là tiếp tục cải cách thể chế, thủ tục hành chính, môi trường đầu tư và đi kèm với đó phải có chính sách về quản trị rủi ro gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế.
Giải pháp nào tháo gỡ vấn đề giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch?
ĐBQH Vũ Thị Liên Hương (Quảng Ngãi) cho rằng, theo quy định của Luật đất đai thì việc giao đất thực hiện thông qua hình thức đấu giá đất. Để có đất đấu giá thì phải giải phóng mặt bằng và để giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch và có căn cứ thu hồi đất thì phải có dự án đầu tư. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Đầu tư công thì không có dự án giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch. Do đó, đề nghị Bộ trưởng cho biết giải pháp để tháo gỡ vấn đề này, tạo điều kiện cho các địa phương triển khai thực hiện các dự án, án tạo quỹ đất sạch?
Liên quan đến vấn đề sử dụng đầu tư công để có thể giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch rồi tiến hành đấu giá, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, khi nghiên cứu trong đề án tách giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư ra khỏi dự án, Bộ đã nghiên cứu vấn đề này. Nhưng thực tế đây là vấn đề rất phức tạp. Nếu dùng tiền ngân sách để giải phóng và tạo quỹ đất sạch nhưng mới chỉ có quy hoạch và chưa có dự án, tức là chưa có chủ trương đầu tư, chưa có quyết định đầu tư thì sẽ lại là dự án treo và dẫn đến thất thoát, lãng phí rất lớn. Còn nếu đấu giá được và đưa vào một dự án cụ thể được thì sẽ rất tốt cho nền kinh tế. Bộ sẽ tiếp tục nghiên cứu và phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường để tìm hướng xử lý.
Luật hóa để khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi mô hình doanh nghiệp
ĐBQH Vũ Tiến Lộc (Hà Nội) chất vấn Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chuẩn bị giải pháp đột phá gì để đạt mục tiêu đến năm 2025 có 1,5 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả? Giải pháp căn cơ nào để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ? Bộ tham mưu Chính phủ như thế nào để quản lý việc kinh doanh của hộ gia đình?
Trả lời ý kiến của đại biểu, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết mục tiêu đạt 1 triệu doanh nghiệp tại nhiệm kỳ trước, trên thực tế là không đạt được. Trên cơ sở tốc độ thành lập mới doanh nghiệp, trong điều kiện thuận lợi, môi trường thuận lợi như hiện nay đang khuyến khích, hỗ trợ thì kỳ vọng có thể phấn đấu được mục tiêu trên. Dẫu vậy, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng thừa nhận là cần có giải pháp căn cơ và đột phá hơn với câu chuyện này.
Triển khai Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Bộ Kế hoạch và Đầu tư vẫn tập trung vào các chính sách đã nêu trong luật để hỗ trợ các doanh nghiệp thành lập mới và có thể hoạt động được. Phải tạo được niềm tin để các doanh nhân, doanh nghiệp thành lập doanh nghiệp, tham gia đầu tư. Ngoài ra, những chương trình đang triển khai như chương trình hỗ trợ chuyển đổi số, hỗ trợ chuyển đổi cho doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp như Nghị định 57 hoặc đầu tư trong các ngành, lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao… sẽ góp phần thúc đẩy phát triển doanh nghiệp trong thời gian tới.
Liên quan đến khu vực hộ kinh doanh, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định thời gian tới phải thể chế hóa để quản lý hiệu quả hơn 5 triệu hộ kinh doanh, với 8 triệu lao động, từ đó hỗ trợ, điều kiện cho khu vực này phát triển, đóng góp thiết thực hơn cho nền kinh tế. Tại nhiệm kỳ trước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có đề xuất là đưa vào bổ sung trong Luật Doanh nghiệp, nhưng Quốc hội đề nghị là nên tách ra thành một luật riêng. Sắp tới, Bộ sẽ báo cáo lại Chính phủ trong thời gian có thể xây dựng một luật riêng để tạo điều kiện phát triển và phát huy tốt tiềm năng, lợi thế từ các hộ kinh doanh. Khi đó các hộ kinh doanh có thể "lớn" lên và chuyển thành doanh nghiệp thì mục tiêu 1,5 triệu doanh nghiệp mới có thể sẽ đạt được.
Về đề xuất xây dựng luật liên quan đến công nghiêp hỗ trợ, quan điểm của tôi rất ủng hộ. Muốn phát triển công nghiệp hỗ trợ, muốn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì phải có nền công nghiệp thực thụ. Và muốn có nền công nghiệp thực thụ phải phát triển công nghiệp phụ trợ, phải có một bộ luật riêng quy định các chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ. Chúng ta chỉ gia công, lắp ráp thôi thì giá trị gia tăng rất thấp. Chúng tôi cũng đồng tình với quan điểm là phải có luật riêng và phải thúc đẩy khu vực doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ chính là để thúc đẩy cả khu vực kinh tế trong nước, là để xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Sớm hoàn thành tuyến đường Bắc Giang - Lạng Sơn
Khu kinh tế cửa khẩu đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh miền núi, biên giới những năm qua. Tuy nhiên, theo ĐBQH Chu Thị Hồng Thái (Lạng Sơn), việc đầu tư phát triển hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của khu vực biên giới, gắn với việc đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại và chưa tương thích với quy mô đầu tư phát triển của nước láng giềng. Qua đại dịch Covid-19 càng bộc lộ rõ hơn hạn chế đó là khi lượng xe, lượng hàng hóa lớn tập trung tại một số cửa khẩu đã gây ách tắc kéo dài thời gian thông quan, ảnh hưởng đến chất lượng hàng hóa xuất khẩu, nhất là nông sản và gây khó khăn cho công tác phòng, chống dịch, đảm bảo an toàn giao thông, bảo vệ môi trường tại địa phương. Câu hỏi đại biểu đặt ra là giải pháp thời gian tới để giải quyết vấn đề đầu tư vào các khu kinh tế cửa khẩu như thế nào?
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, cả nước hiện có 28 khu kinh tế cửa khẩu, trong đó có ba cửa khẩu quan trọng nhất đó là Móng Cái của Quảng Ninh, Lào Cai và Tân Thanh của Lạng Sơn. Ba cửa khẩu này trước đây đã có chương trình mục tiêu để hỗ trợ các công trình hạ tầng của khu kinh tế cửa khẩu và ba cửa khẩu này cũng là ba cửa khẩu được ưu tiên nhiều nhất trong tất cả các chương trình trong suốt 15 năm liền. Đối với cả ba cửa khẩu quan trọng bậc nhất này, mặc dù có thể chưa đáp ứng đủ nhưng đã được đầu tư nhiều nhất trong điều kiện cho phép.
Riêng đối với Lạng Sơn, theo Bộ trưởng, hiện nay có một vấn đề là phải hoàn thành sớm tuyến đường Bắc Giang-Lạng Sơn. Nếu có thể hoàn thành tuyến đường này thì trong thời gian tới sẽ thông toàn tuyến từ Hà Nội lên Bắc Giang, Lạng Sơn. Ngoài ra, có 5 tuyến cửa khẩu hết sức quan trọng là Móng Cái, Lào Cai, Lạng Sơn, Hà Giang, Hòa Bình lên Sơn La, Điện Biên, Lai Châu… Đây là 5 tuyến đường trục dọc hết sức quan trọng, không những về xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội, khai thác mở rộng không gian phát triển cho các tỉnh mà còn thúc đẩy xuất khẩu cho cả nước. Bộ Kế hoạch và Đầu tư rất ủng hộ việc sớm trình để cùng thống nhất với Bộ Giao thông - Vận tải trình với Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ xem xét, có các nguồn lực đầu tư cần thiết để sớm đầu tư các tuyến này. Như vậy, các tỉnh này sẽ phát huy được hiệu quả các khu kinh tế cửa khẩu của mình, đồng thời thúc đẩy cho kinh tế và phát triển xuất nhập khẩu của cả nước.
Giải ngân vốn đầu tư công chậm- do đâu?
ĐBQH Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) chất vấn về việc Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư nói giải ngân chậm do địa phương chứ không phải do bộ. Tuy nhiên, theo đại biểu Hòa, những dự án quan trọng quốc gia nhóm A do bộ, ngành trung ương thẩm định. Như vậy việc chậm là trách nhiệm của bộ, ngành trung ương chứ không phải địa phương.
Đại biểu nhấn mạnh: Địa phương nào giải ngân chậm thì xử lý địa phương đó. Nhưng về thẩm định của Bộ, ngành Trung ương đối với những dự án quan trọng quốc gia chậm thì ai chịu trách nhiệm đây? Bộ trưởng cần làm rõ trách nhiệm cho rõ?
Việc giao vốn và ghi dự án cùng lúc bất cập cần có sự điều chỉnh. Cụ thể, dự án chưa phê duyệt xong, thậm chí mới thẩm định sơ bộ, chưa thẩm định chính thức thì đã kèm theo vốn. Dự án chưa xong thì không thể giải ngân, nên "bất cập cần điều chỉnh".
Trả lời sau đó, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết các dự án nhóm A địa phương thẩm định; đối với dự án quan trọng quốc gia là Bộ Kế hoạch và Đầu tư thẩm định trình cho Thủ tướng. "Chúng tôi luôn nỗ lực không để chậm một ngày, một giờ nào. Còn quy trình thủ tục gồm nhiều bước, lấy ý kiến nhiều cơ quan để tổng hợp lại có thể chậm, chúng tôi rút kinh nghiệm và cố gắng cao nhất", ông Dũng nói.
Đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) nhắc lại câu chuyện Chính phủ hứa đầu tư cho đồng bằng sông Cửu Long 2 tỷ USD, nhưng Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long chưa hoàn thành. "Chưa phê duyệt thì làm sao giải ngân. Nếu không phê duyệt thì trong cả giai đoạn 2021-2025, số tiền 2 tỷ USD Thủ tướng hứa đồng bằng sông Cửu Long cũng không nhận được", ông Hòa nói và đề nghị các bộ ngành sớm hoàn thành Quy hoạch.
Về vấn đề này, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cũng nói thêm: "Quy hoạch về đồng bằng sông Cửu Long, Bộ trưởng nêu là "sẽ" nhưng chưa hẹn ngày cụ thể. Vậy có thể trả lời khoảng thời gian nào có thể phê duyệt".
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, đây là quy hoạch quan trọng, hướng tới phát triển bền vững nên có nhiều ý nghĩa, giải quyết thách thức biến đổi khí hậu, xóa đói giảm nghèo, quốc phòng an ninh. Những gì thuộc về Bộ, ông sẽ cố gắng làm nhanh nhất. "Tôi sẽ báo cáo với Chính phủ, xin hứa từ góc độ chủ quan, cá nhân, nếu hoàn tất các nội dung thì tháng 12 này sẽ phê duyệt trên cơ sở các ý kiến đồng thuận", Bộ trưởng Dũng nói.
Không nới trần nợ công, tăng bội chi sẽ lỡ cơ hội phát triển
ĐBQH Nguyễn Văn Hiển (Lâm Đồng) đặt vấn đề, theo ý kiến nhiều chuyên gia, để hỗ trợ an sinh xã hội và phục hồi nền kinh tế sau đại dịch cần gói hỗ trợ đủ lớn, đặc biệt là gói tiền mặt tương đương 3-4% GDP. Đại biểu cho rằng, nếu làm như vậy sẽ tăng nợ công, tăng bội chi, nợ Chính phủ. Còn nếu không có các giải pháp đủ lớn, nền kinh tế sẽ chậm phục hồi, lỗi nhịp so với sự phát triển của các nước, kèm theo nhiều hệ lụy tiêu cực. "Chúng ta chấp nhận vượt trần ngân sách, tăng nợ công hay hỗ trợ không đủ lớn, không đủ liều?", Đại biểu đồng thời gửi câu hỏi này đến Bộ trưởng Tài chính và Thủ tướng Chính phủ.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng, nếu hỗ trợ tiền mặt, cấp tiền cho người dân thì nguy cơ lớn sẽ rủi ro làm tăng lạm phát. Quan điểm là ủng hộ nới bội chi và nợ công trong khoảng ta kiểm soát được, vì nếu không nới bội chi và nợ công sẽ khó tăng trưởng.Nếu không tăng trưởng thì khó đạt mục tiêu 5 năm, chiến lược 10 năm và khát vọng đến năm 2045 là nước phát triển.
Đồng thời, theo Bộ trưởng, nếu không nới bội chi và trần nợ công, "chúng ta bỏ cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, dân số vàng, các hiệp định thương mại tự do, những chuyển dịch mới". Vì vậy, cá nhân bộ trưởn ủng hộ nghiên cứu nới bội chi và nợ công. "Như vậy vừa phát triển, giải quyết việc làm, làm cho quy mô nền kinh tế lớn hơn, khi đó thì tự khắc nợ công sẽ giảm xuống dù không thể xuống như cũ. Còn nếu không nới, không có đầu tư, không có phát triển, sẽ là vòng luẩn quẩn là bội chi, nợ công lúc nào cũng ở mức cao trong khi chúng ta bỏ hết cơ hội phát triển", Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nêu quan điểm.
Liên kết vùng "chưa thực hiện được bao nhiêu"
ĐBQH Hà Phước Thắng (TP. Hồ Chí Minh) cho biết, hiện vùng kinh trọng điểm kinh tế phía Nam rất quan trọng, mỗi năm đóng góp khoảng 45% GDP cả nước. Đại biểu đề nghị Bộ trưởng cho biết kết quả liên kết vùng thời gian qua, định hướng, giải pháp và những đề xuất để giúp nâng cao hiệu quả liên kết, hợp tác của vùng năm 2022 và giai đoạn 2022-2025 ra sao? Đại biểu cũng đề nghị Bộ trưởng cho biết giải pháp trọng tâm để khôi phục, phát triển kinh tế các tỉnh, TP phía Nam đang chịu tác động của dịch?
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, liên kết vùng đã đặt ra nhưng thực hiện "chưa được bao nhiêu" vì thiếu ba vấn đề: Thiếu quy hoạch vùng, thiếu nguồn lực đầu tư cho hạ tầng liên kết vùng và thiếu một cơ chế điều phối hợp tác liên kết phát triển vùng.
Hiện nay, Bộ Kế hoạch Đầu tư được giao nhiệm vụ lập quy hoạch vùng, tìm cơ chế, thể chế cho các vùng và xây dựng cơ chế điều phối liên kết vùng. Vì Việt Nam không có chính quyền vùng, không cấp ngân sách vùng, trong vùng tỉnh nào có ngân sách tỉnh đó, không dùng chung. Do đó, ông nói rất khó thống nhất "góp gạo thổi cơm chung".
Bộ trưởng nêu ví dụ, khi quy hoạch các công trình trường học, bệnh viện thì tỉnh nào cũng sẵn sàng nhận, nhưng nếu là nghĩa trang hay bãi xử lý rác thải thì lại không tỉnh nào muốn nhận. "Chúng tôi đứng ở giữa, khi lập quy hoạch vùng rất khó xử, phải làm thế nào để hài hòa, thống nhất, có cơ sở khoa học, luận cứ để thuyết phục các địa phương đồng tình là đường thì đặt chỗ này, khu công nghiệp chỗ kia...", Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư chia sẻ.
Về những giải pháp trọng tâm khôi phục, phát triển kinh tế các tỉnh, thành phía Nam bị ảnh hưởng nặng nề bởi Covid-19, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết vẫn chưa nghiên cứu cụ thể vấn đề này, mới nghiên cứu chương trình phục hồi chung của cả nền kinh tế. Các tỉnh phía Nam đóng góp rất lớn cho đất nước, cả GDP lẫn thu ngân sách, giải quyết việc làm. Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư nói có thể nghiên cứu chương trình phục hồi riêng cho các cực tăng trưởng, vùng kinh tế trọng điểm. Nội dung có thể xem xét là phát triển hạ tầng, đào tạo lại nguồn lao động, thu hút đầu tư; xem xét hỗ trợ từ trung ương, nỗ lực của bản thân các địa phương... "Bộ sẽ báo cáo Thủ tướng, nghiên cứu cẩn trọng và báo cáo Quốc hội sau", ông Dũng nói.
8h đến 9h50: Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng tiếp tục trả lời chất vấn
Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng tiếp tục trả lời chất vấn, từ 8h đến 9h50 sáng 12.11. Cuối phiên hôm qua, còn câu hỏi từ 4 ĐBQH sẽ được ông dự kiến trả lời trong phiên sáng nay.
ĐBQH Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Dương) hỏi về cách tiếp cận xây dựng biện pháp khôi phục kinh doanh khi doanh nghiệp đang gặp khó khăn, như nguồn vốn đứt đoạn, nguồn cung lao động thiếu, chuỗi cung ứng đứt gãy. Theo bà, Chính phủ phải có giải pháp vừa tổng thể, vừa ưu tiên trong khi ngân sách còn khó khăn.
ĐBQH Nguyễn Anh Trí (Hà Nội) nêu vấn đề về người lao động. "Từ những làn sóng người lao động trở về quê trong Covid-19, Bộ trưởng có suy nghĩ như thế nào về chiến lược đầu tư trên bình diện cả nước để hạn chế căn cơ các làn sóng di cư trong tương lai?".
ĐBQH Nguyễn Quốc Hận (Cà Mau) hỏi Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư: "Bộ đã phối hợp với Bộ Công Thương thế nào trong việc xây dựng quy hoạch điện VIII để ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo, Bộ phối hợp thế nào với Bộ Tài chính thế nào trong đề xuất đầu tư 2 tỷ USD cho đồng bằng sông Cửu Long?"
ĐBQH Nguyễn Cao Sơn (Hòa Bình) đề nghị Bộ trưởng cho biết Chính phủ và Bộ đã xây dựng giải pháp, kế hoạch thế nào để ứng phó với tình hình dịch bệnh phức tạp, giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, nhằm ổn định vĩ mô.
Sau phần trả lời của Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, Thủ tướng Phạm Minh Chính sẽ làm rõ các vấn đề liên quan và trả lời chất vấn của đại biểu.
Vừa hỗ trợ phục hồi trong ngắn hạn, vừa lồng ghép với các chiến lược dài hạn
Trả lời câu hỏi của ĐBQH Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Dương), cách tiếp cận xây dựng biện pháp khôi phục kinh doanh khi doanh nghiệp đang gặp khó khăn, như nguồn vốn đứt đoạn, nguồn cung lao động thiếu, chuỗi cung ứng đứt gãy. Vậy, Chính phủ phải có giải pháp vừa tổng thể, vừa ưu tiên trong khi ngân sách còn khó khăn?
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết có 7 cách tiếp cận. Thứ nhất, sẽ tiếp cận theo diễn biến của tình hình dịch bệnh, tiến độ tiêm vaccine và khả năng cung ứng thuốc điều trị khi chuyển sang trạng thái bình thường mới, đó là thích ứng toàn, linh hoạt và kiểm soát hiệu quả. Từ đó, sẽ chủ động xây dựng các phương án và kịch bản ứng phó.
Thứ hai, xây dựng chính sách theo hướng mở để có thể điều chỉnh một cách linh hoạt, phù hợp với nhu cầu thực tế của các đối tượng cần hỗ trợ trong từng thời gian cụ thể.
Thứ ba, phải vừa hỗ trợ phục hồi nhanh trong ngắn hạn nhưng vừa kết hợp lồng ghép với các chiến lược và kế hoạch 5 năm trong dài hạn.
Thứ tư, các chính sách bảo đảm các mục tiêu cao nhất, phải ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế như an toàn quốc gia về hoạt động ổn định các tổ chức tín dụng, các chỉ tiêu về nợ công, bội chi, lạm phát… và phải đảm bảo các mục tiêu.
Thứ năm, các chính sách này phải hướng tới tác động cả về phía cung và phía cầu, cả về kinh tế lẫn an sinh xã hội, lao động, việc làm và phải có trọng tâm, trọng điểm.
Thứ sáu, phải phù hợp với khả năng huy động và trả nợ.
Cuối cùng, phải có một nhóm nhiệm vụ, giải pháp để kiểm soát, giám sát chặt chẽ, đảm bảo hiệu quả và phải đạt được mục tiêu đã đề ra trong chương trình.
Xác định tỷ lệ nợ công, bội chi, lạm phát cho từng kịch bản
Trả lời câu hỏi của ĐBQH Nguyễn Cao Sơn (Hòa Bình) về xây dựng kịch bản để ứng phó với rủi ro về các cân đối lớn của nền kinh tế, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, Bộ đã xây dựng để tiếp cận hai kịch bản đó là không có và có chương trình phục hồi. Đồng thời xác định mức độ nợ công, bội chi cho từng kịch bản.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang cùng với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước tính toán về việc sử dụng các công cụ, chính sách tài khóa và tiền tệ như thế nào, khả năng huy động, phân bổ và hấp thụ của nền kinh tế ra sao. Về quan điểm, thì phải mạnh dạn hơn để phối hợp giữa phát triển kinh tế để phục hồi. Tinh thần chỉ đạo chung là vừa tăng trưởng, vừa tăng quy mô của nền kinh tế, vừa tăng thu ngân sách nhà nước, vừa tạo nhiều việc làm cho xã hội nhưng vẫn bảo đảm an toàn về nợ công và bội chi ngân sách.
Bộ cũng xác định công cụ quan trọng nhất vẫn là phải theo dõi chặt chẽ diễn biến về giá cả, điều chỉnh, điều hành linh hoạt để giảm áp lực lạm phát, bảo đảm nguồn cung nguyên vật liệu, hóa thiết yếu. Đầu tư công phải có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm hiệu quả và mang tính dẫn dắt để kích hoạt nguồn vốn ngoài nhà nước cùng tham gia.
Phát triển cân bằng giữa các vùng, miền, địa phương sẽ giảm tình trạng di chuyển về quê
Trả lời câu hỏi của ĐBQH Nguyễn Anh Trí (Hà Nội) về chiến lược đầu tư trên bình diện cả nước để hạn chế căn cơ các làn sóng di cư trong tương lai, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng, phải nhìn nhận vấn đề này một cách đầy đủ hơn, phải coi đây là vấn đề lớn liên quan đến kinh tế - xã hội, an ninh trật tự và là vấn đề chưa có tiền lệ nên chưa có nhiều kinh nghiệm để ứng phó. Đây là nhu cầu khách quan, nhưng về chủ quan, phải nâng cao khả năng dự báo, ứng phó, xử lý tình huống để rút ra các bài học thực tiễn để chống dịch tốt hơn.
Khi quy hoạch tốt về đầu tư; về cơ chế chính sách; về xây dựng thị trường lao động để đảm bảo định hướng phát triển cân bằng, hài hòa giữa các vùng, miền và địa phương để giảm bớt hiện tượng này trong tương lai. Khi đó, vấn đề cung cầu lao động sẽ được dịch chuyển một cách hợp lý và giữa phát triển giữa các vùng, miền thì việc di chuyển về quê sẽ giảm đi.
Tính toán thận trọng tỷ lệ nợ công, bội chi để hạn chế rủi ro
ĐBQH Lê Minh Nam (Hậu Giang)tranh luận, cần phải đánh giá kỹ lưỡng, toàn diện về thực trạng, nhu cầu, khả năng hấp thụ vốn đầu tư công và các yếu tố có liên quan trước khi quyết định. Về nợ công, chiều 9.11, ĐBQH Nguyễn Hữu Toàn (Lai Châu) đã phân tích và chỉ ra nợ công cuối năm 2021 chiếm khoảng 44% GDP. Vì vậy, cho dù giá trị tuyệt đối và nợ công không giảm nhưng mẫu số GDP tăng nên tỷ lệ này thấp đã tạo ra cảm giác còn dư địa để tăng nợ công nhưng thực chất thì không hoàn toàn như vậy. Cũng trong chiều 9.11, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc chia sẻ, giai đoạn 2016 - 2020 tổng vay của Chính phủ là 1.852.000 tỷ đồng, giai đoạn 2021 - 2025 dự kiến vay 3.068.000 tỷ đồng nên nợ công dự kiến năm 2025 chỉ khoảng 45,6% GDP mới, còn nếu tính theo GDP cũ là khoảng 57,9%, như vậy cũng đã vượt ngưỡng 55%. Nếu phải ưu tiên kiểm soát nợ công nhằm đảm bảo an ninh tài chính và cân đối vĩ mô, phải thận trọng khi quyết định.
Về bội chi ngân sách, Báo cáo 424 của Chính phủ đặt mục tiêu giảm dần thâm hụt ngân sách cả giai đoạn 2021 - 2025 bình quân khoảng 3,7% GDP. Bộ trưởng dự kiến theo chương trình phục hồi kinh tế nếu làm tăng bội chi 1% thì sẽ tăng gánh nặng giảm thấp tỷ lệ này cho những năm tiếp theo. Vì vậy, đại biểu đồng tình với quan điểm của đại biểu Nguyễn Hữu Toàn là phải có chương trình phục hồi kinh tế nhưng cũng phải tính toán thận trọng tỷ lệ nợ công, bội chi để hạn chế rủi ro.
Đại biểu cũng cho rằng, trước khi tính đến kịch bản tăng trưởng thì cần tập trung tính toán sử dụng các gói kích cầu, chính sách tài khóa, tiền tệ hợp lý để thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng thu ngân sách, từ đó giảm bội chi và tăng cường quản trị hiệu quả nguồn lực hiện có bằng các giải pháp thích hợp, đặc biệt là quyết liệt trong thực hiện phân bổ và tăng cường giải ngân vốn đầu tư công.
Theo Báo cáo 425 của Chính phủ thì tỷ lệ giải ngân 9 tháng đầu năm 2021 dự kiến đạt 47,38% kế hoạch Thủ tướng giao. Bộ trưởng cho biết, hết tháng 10 vẫn còn 30 tỉnh thành giải ngân dưới 60%. Vì vậy, cần quyết liệt thực hiện Nghị quyết 63 của Chính phủ để phấn đấu giải ngân năm 2021 đạt 95 - 100% và nỗ lực hạn chế tình trạng có nơi có tiền chưa tiêu được nhưng có nơi khi cần vẫn phải vay. Đại biểu đề nghị Bộ trưởng giải thích chi tiết, cụ thể về các kịch bản.
Đại biểu cho rằng Quốc hội đang triển khai thực hiện giám sát tối cao về tình hình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Kết thúc giám sát sẽ có những đánh giá cụ thể về thực trạng tồn tại, hạn chế cũng như là nguyên nhân ở cả góc độ thể chế và tổ chức thực hiện. Điều này sẽ giúp Quốc hội đồng hành với Chính phủ đề ra những giải pháp khắc phục hướng đến quản lý, sử dụng các nguồn tài chính công, tài sản công hiệu quả, an toàn và bền vững.
Về tăng bội chi và nợ công cũng như khả năng hấp thụ của nền kinh tế, đảm bảo không phá vỡ an toàn tài chính chung cũng như hệ thống ngân hàng, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, đây là vấn đề đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư lưu ý trong quá trình xây dựng, được tính toán hết sức thận trọng. Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước cùng tính toán về dư địa còn lại, sử dụng các công cụ từ chính sách tài chính, tài khóa, tiền tệ để xem xét sử dụng cụ nào và khả năng còn bao nhiêu, huy động bằng cách nào. Bộ trưởng đồng tình rằng đây là vấn đề hết sức quan trọng để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô cũng như cân đối lớn nên khi tính toán phải hết sức thận trọng để đảm bảo phục hồi, tận dụng các cơ hội đảm bảo được các mục tiêu trong dài hạn, cân nhắc đến cả vấn đề an toàn, ổn định kinh tế vĩ mô.
Về đầu tư công, theo Bộ trưởng, đây là vấn đề nan giải chưa giải quyết một cách triệt để. Nếu chúng ta giải ngân không tốt, kể cả gói hỗ trợ cho đầu tư công cũng rất khó hấp thụ.
Nới bao nhiêu trần nợ công để phục hồi kinh tế?
Việc chấp nhận vượt trần ngân sách, tăng nợ công để có gói cứu trợ đủ lớn hay không được ĐBQH Nguyễn Văn Hiển (Lâm Đồng) nêu tại phiên chất vấn chiều qua và sáng nay, đại biểu tiếp tục tranh luận lại với Bộ trưởng.
Đại biểu Nguyễn Văn Hiển cho biết, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, để hỗ trợ an sinh xã hội và phục hồi nền kinh tế sau đại dịch cần gói hỗ trợ đủ lớn, đặc biệt là gói tiền mặt tương đương 3-4% GDP.
Đại biểu cho rằng, nếu làm như vậy sẽ tăng nợ công, tăng bội chi, nợ Chính phủ. Còn nếu không có các giải pháp đủ lớn, nền kinh tế sẽ chậm phục hồi, lỗi nhịp so với sự phát triển của các nước, kèm theo nhiều hệ lụy tiêu cực.
Vậy “chúng ta chấp nhận vượt trần ngân sách, tăng nợ công hay hỗ trợ không đủ lớn, không đủ liều?", đại biểu nêu câu hỏi.
Về trả lời của Bộ trưởng, đại biểu cũng đồng tình với nhiều quan điểm Bộ trưởng đã nêu. Tuy nhiên, trong nghiên cứu Báo cáo kinh tế xã hội của Chính phủ thì không thể hiện rõ kế hoạch tổng thể, tổng mức chi cho các gói hỗ trợ về tài khóa và tiền tệ để phục hồi nền kinh tế. "Cần có kế hoạch tổng thể, thống kê, tổng hợp, dự báo các gói hỗ trợ từ ngân sách bao gồm cả tài khóa, tiền tệ, nguồn lực khác, trong đó có dự tính nguồn lực của toàn xã hội"- đại biểu nói và nhấn mạnh đây là cơ sở khoa học quan trọng để xây dựng kế hoạch tổng thể, xác định đầy đủ nguồn lực làm cơ sở hoạch định và điều hành kinh tế vĩ mô một cách chính xác và hiệu quả hơn.
Trả lời đại biểu, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng, nếu hỗ trợ tiền mặt, cấp tiền cho người dân thì nguy cơ lớn sẽ rủi ro làm tăng lạm phát. Quan điểm là ủng hộ nới bội chi và nợ công trong khoảng kiểm soát được. Vì nếu không nới bội chi và nợ công sẽ khó tăng trưởng. Nếu không tăng trưởng thì khó đạt mục tiêu 5 năm, chiến lược 10 năm và khát vọng đến năm 2045 là nước phát triển.
"Vậy nới thì nới bao nhiêu. 1% hay 2%? Nới ra rồi huy động bằng cách nào? Huy động được rồi thì sử dụng vào đâu để hiệu quả", Bộ trưởng Dũng nói.
Bộ Kế hoạch Đầu tư đã xây dựng kịch bản rồi nhưng "xin phép chưa báo cáo dịp này" mà cần tính toán thận trọng, kỹ lưỡng, báo cáo cấp có thẩm quyền trước khi báo cáo với Quốc hội. Tất cả vấn đề này đang được các Bộ ngành tính toán." - Bộ trưởng Dũng trả lời.
Mục tiêu năm 2025 đạt 1,5 triệu doanh nghiệp rất khó thực hiện
ĐBQH Trịnh Xuân An (Đồng Nai)nêu vấn đề: Chiều hôm qua Bộ trưởng đánh giá về các biện pháp để hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp đã có những tín hiệu tích cực. Tuy nhiên tôi cho rằng, còn nhiều vấn đề khó khăn đối với hệ thống doanh nghiệp nên cần phải đánh giá thật kỹ các biện pháp hỗ trợ và tháo gỡ khó khăn. Chúng ta có những gói hỗ trợ, có những chính sách giảm,giãn, miễn thuế, nhưng đó là những doanh nghiệp còn có thuế. Nhưng đối với những doanh nghiệp không có thuế, không còn tiền thì họ đang ở “bờ vực nguy hiểm” và khi hệ thống doanh nghiệp này mất đi sẽ rất khó hoàn thiện mục tiêu đạt 6,5% GDP tăng trưởng, cũng như rất khó cho mục tiêu năm 2025, nước ta đạt 1,5 triệu doanh nghiệp. Vì vậy, vấn đề này ngoài Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nên xem xét vai trò của hệ thống ngân hàng. Tôi đề nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước nói thêm về vai trò trong việc hỗ trợ đối với doanh nghiệp, đặc biệt là hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, khi có tới 70% doanh nghiệp vừa và nhỏ không tiếp cận được nguồn vốn vay...
Trả lời vấn đề này, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, khó khăn của các doanh nghiệp hiện tập trung vào mấy vấn đề. Thứnhất là do tổng cầu và sản lượng, doanh thu đã giảm mạnh. Thứ hai là khó khăn về dòng tiền. Các doanh nghiệp vì không sản xuất, phải dừng, giãn, hoãn sản xuất nên chắc chắn là không có dòng tiền “chảy vào” vì vậy rất khó cho doanh nghiệp. Thứ ba là chi phí đầu vào, nhất là chi phí vận chuyển, logistics, container… đang tăng rất cao. Thứ tư là việc thiếu nguyên liệu, vật tư, vật liệu đầu vào. Thứ năm là chuỗi cung ứng, sản xuất tiêu dùng, xuất khẩu đang bị gián đoạn. Vừa qua việc lưu thông hàng hóa gặp nhiều khó khăn. Thứsáu là khó khăn về các chuyên gia và lao động.
Tuy nhiên, sau khi có Nghị quyết 105 và Nghị quyết 128 của Chính phủ, tinh thần của các doanh nghiệp đã tương đối tích cực, phấn khởi. Các doanh nghiệp trên địa bàn cả nước đã bắt đầu mở cửa và tái sản xuất trở lại... Dù vậy, trong thời gian vừa qua mới chỉ tập trung vào hỗ trợ cho “doanh nghiệp khỏe”, tức là đang có doanh thu, đang có lợi nhuận để được hưởng ưu đãi, hỗ trợ miễn thuế, giảm thuế, giãn thuế của nhà nước. Nhưng những “doanh nghiệp yếu”, doanh nghiệp không có doanh thu thì chưa được quan tâm hỗ trợ trực tiếp bằng các chính sách tài khóa. Còn những chính sách chung, thì các doanh nghiệp đó vẫn được hưởng như các ưu đãi như với các “doanh nghiệp khoẻ”.
Bộ trưởng cho biết vẫn lưu ý những vấn đề này để tham mưu cho Chính phủ có chính sách cần thiết để hỗ trợ cho các doanh nghiệp khó khăn, không có doanh thu và không có lợi nhuận để tránh đổ vỡ trong thời gian tới.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng: Rủi ro lạm phát trong năm 2022 là rất lớn
Ngay sau phần trả lời chất vấn của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng đã đăng đàn, làm rõ một số nội dung liên quan mà các đại biểu đã chất vấn và cử tri cả nước quan tâm.
Thống đốc cho biết, chính sách tiền tệ phải thực hiện hai nhiệm vụ chính, là điều hành để góp phần kiểm soát lạm phát, vĩ mô và đảm bảo an toàn, khả năng chi trả của hệ thống. Việc xem xét các công cụ chính sách trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước phải căn cứ trên hai mục tiêu này, đồng thời đảm bảo cân đối lớn của vĩ mô.
Với dư địa chính sách, Thống đốc cho rằng, năm 2021, chỉ tiêu đạt lạm phát dưới 4% có thể đạt được nhưng năm 2022, rủi ro lạm phát có áp lực rất lớn. Khi nền kinh tế thế giới đã và dần phục hồi, giá cả hàng hóa đang có xu hướng gia tăng, một số mặt hàng như xăng dầu đã tăng rất cao, nhiều nước phát triển đã ghi nhận mức lạm phát cao nhất lịch sử. Với nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam, áp lực rủi ro lạm phát nhập khẩu rất lớn.
Các Ngân hàng trung ương trên thế giới hiện cũng giảm dần nới lỏng chính sách, theo tính toán của Thống đốc, đã có 65 lượt tăng lãi suất, tạo áp lực điều hành cho Việt Nam thời gian tới.
Đồng thời, nếu nhìn từ nhiệm vụ thứ hai của chính sách, nợ xấu của các tổ chức tín dụng cũng đang gia tăng. Các ngân hàng giảm lãi suất bằng chính nguồn lực chứ không phải từ ngân sách. Khi nợ xấu gia tăng các tổ chức cũng phải dùng nguồn lực để xử lý. Nếu nguồn lực của tổ chức tín dụng suy giảm sẽ ảnh hưởng tới hoạt động, tính an toàn của hệ thống. Bài học từ cuộc khủng hoảng 2008-2009 vẫn còn, nếu tính toán không cẩn thận, rủi ro lạm phát có thể quay trở lại.
Về phía Ngân hàng Nhà nước, Thống đốc cho biết sẽ tiếp tục chỉ đạo cố gắng tiết giảm chi phí hoạt động để giảm lãi suất nhưng phải đảm bảo mức độ an toàn của từng tổ chức tín dụng và hệ thống. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành liên quan để tính toán các gói hỗ trợ lãi suất hợp lý, trên cơ sở ổn định vĩ mô, phòng ngừa rủi ro lạm phát.
Đánh giá về việc thực hiện chính sách từ đầu năm 2020, Thống đốc cho biết, đại dịch đã tác động nghiêm trọng tới sản xuất kinh doanh, và Ngân hàng Nhà nước trong thời gian qua đã tích cực thực hiện chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ. Ngay từ đầu năm 2020, trong điều hành lãi suất, Ngân hàng Nhà nước đã ba lần giảm lãi suất, từ 1,5-2%. "Đây là mức giảm sâu so với các nước trong khu vực", Thống đốc nói.
Ngoài việc điều hành lãi suất, cơ quan điều hành cũng chỉ đạo, kêu gọi các tổ chức tín dụng giảm cả với các khoản vay cũ. Mặt bằng lãi suất cho vay đã giảm 1,66% so với trước dịch, với tổng mức giảm lãi suất khoảng 30.000 tỷ đồng. Ngân hàng cũng giảm phí hơn 2.000 tỷ đồng cho khách hàng. Bằng việc này đã giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp và người dân.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc: Giải ngân thấp có nguyên nhân từ thể chế
Tham gia giải trình, Bộ trưởng Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết, các công cụ để thực hiện chính sách tài khóa cơ bản là thuế, thu ngân sách, nợ và chi ngân sách, kết hợp chính sách tài khóa với tiền tệ.
Về thu ngân sách, Bộ tiếp tục đề nghị Chính phủ, Quốc hội thực hiện chính sách thuế như năm 2021. Ví dụ giãn, hoãn thuế như năm 2021 (giãn hoãn đến 31/12 khoảng 115.000 tỷ đồng); giảm 30 loại phí; giảm giá xăng dầu, thuế của hàng không 50% (trước đây giảm 30%); miễn, giảm 30% thuế VAT, 30% thuế thu nhập doanh nghiệp, 50% thuế của hộ sản xuất kinh doanh, miễn phạt tiền chậm nộp...
Bộ sẽ tập trung thu trên nền tảng số và sàn thương mại điện tử, phát hành hóa đơn điện tử để tránh hóa đơn giả, hoàn thuế trục lợi, trốn thuế... và khoản thu trong chuyển nhượng bất động sản, chống chuyển giá, trốn thuế.
Nếu tính GDP cũ, năm 2021 nợ công 56,8%, vượt ngưỡng cảnh báo 55%, đây là vấn đề cần cân nhắc. Dư nợ Chính phủ 51,5% theo GDP cũ, 40,5% theo GDP đánh giá lại; nợ công 3,75 triệu tỷ, nợ Chính phủ 3,397 triệu tỷ. Bộ trưởng ủng hộ các gói kích cầu để phát triển kinh tế, nhưng các gói này phải có hiệu quả để tăng thu ngân sách, giữ được bội chi ngân sách. Tăng bội chi ngân sách 2022, 2023 nhưng giảm các năm tiếp theo và làm nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững.
Về thực hiện các gói kích cầu, theo Bộ trưởng, nếu bỏ ra mỗi năm 20.000 tỷ, hai năm 2022-2023 là 40.000 tỷ, thì với lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp khoảng 4% thì huy động được khoảng 1 triệu tỷ bỏ vào nền kinh tế. Khoản này không làm tăng bội chi ngân sách, cũng không làm tăng nợ công vì nguồn này được lấy trong nguồn đầu tư chưa phân bổ 2021-2025.
Bộ Tài chính tính toán một số gói như phát hành trái phiếu Chính phủ, công trái bằng ngoại tệ để huy động tiền trong dân, dự tính huy động khoảng 180.000 tỷ đồng. Như vậy mỗi năm tăng bội chi ngân sách 1%.
Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng băn khoăn khi có tiền rồi, nền kinh tế có hấp thụ được không và vào lĩnh vực nào. Tiền phải đổ vào các dự án đầu tư công để dẫn dắt đầu tư, tạo nên đột phá lớn để tăng trưởng. "Phải lập dự án trong điều kiện đặc biệt mới tiêu được tiền ở các gói kích cầu", Bộ trưởng nói.
Cùng với đó, chính sách tài khóa và tiền tệ được thực hiện đồng bộ, như vay giải quyết việc làm, làm nhà ở xã hội, các vấn đề mang tính chất hỗ trợ thì tập trung vào ngân hàng chính sách xã hội. Nhưng vay để các doanh nghiệp tập trung phát triển thì thông qua kênh của ngân hàng thương mại, huy động vốn trên thị trường chứng khoán.
Về công cụ chi ngân sách, Bộ trưởng cho biết, tiết kiệm chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển phải có hiệu quả, nếu không sẽ sắp xếp lại, lấy dự án để đưa vào dự án khác hiệu quả hơn. Trong dự toán phân bổ ngân sách dự toán phân bổ cho các tỉnh, bộ ngành, Bộ Tài chính đã cắt giảm 10% so với định mức Thường vụ Quốc hội ban hành, trong quá trình điều hành tiếp tục cắt giảm khoảng 10% nữa. Tiết kiệm 50% chi tiếp khách, công tác phí trong nước và ngoài nước. Như vậy sẽ tiết kiệm một số khoản chi để tập trung đầu tư và chống dịch.
Về giải ngân đầu tư công thấp, Bộ trưởng Tài chính cho rằng có nhiều nguyên nhân, nhưng cũng có nguyên nhân từ thể ch". Cụ thể, nghị định 59 quy định các công trình loại A thì các bộ ngành chuyên ngành phê duyệt, nên các tỉnh phải đưa hồ sơ lên Bộ ngành để phê duyệt thiết kế cơ sở. Việc này cũng chậm nên khó khăn. Cạnh đó, giải phóng mặt bằng, lập dự án để xác định nguồn vốn cũng khó khăn, trong khi phân bổ vốn thì chậm.
Về gói đầu tư 2 tỷ USD cho đồng bằng sông Cửu Long, Bộ trưởng Tài chính cho biết khoản này do Ngân hàng thế giới cam kết với Chính phủ Việt Nam. Số tiền này không phải ngân sách vay để thực hiện bù bội chi ngân sách mà cho vay để đầu tư dự án. Muốn đầu tư dự án thì phải có quy hoạch được phê duyệt. Khi đó, mới lập được dự án, mới tiếp cận được khoản vay, từ đó mới ký được hiệp định. "Bây giờ phải lập dự án trong tình trạng khẩn cấp, báo cáo cấp có thẩm quyền, khi đó sẽ giải ngân được sớm", Bộ trưởng nói.
Đối với chính sách thuế trong thời gian tới, Bộ Tài chính tiếp tục đề nghị Chính phủ, Quốc hội thực hiện chính sách thuế như năm 2021, ví dụ giảm, giãn, hoãn thuế. Giảm, giãn, hoãn thuế đến hết năm 2021 là 115.000 tỷ đồng; giảm 30 loại phí; giảm thuế xăng dầu trong hàng không là 50% năm 2022 (2021 là giảm 30%); chính sách miễn giảm thuế như: 30% thuế giá trị gia tăng (VAT); 30% thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN); 50% thuế của các hộ sản xuất kinh doanh, miễn tiền chậm nộp đối với đơn vị kinh doanh thua lỗ, khó khăn.
Đồng thời Bộ Tài chính sẽ tập trung thu trên nền tảng số, sàn thương mại điện tử, phát hành hóa đơn điện tử để tránh hóa đơn giả, hoàn thuế trục lợi, trốn thuế; thu thuế trong bất động sản, chuyển nhượng bất động sản; chống chuyển giá trốn thuế.
Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể: Cam kết hoàn thành đúng tiến độ sân bay Long Thành và cao tốc Bắc Nam
Tham gia giải trình, "chia lửa" cùng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể cho biết, năm 2020 và 2021, Bộ Giao thông và vận tải xác định công tác triển khai các dự án đầu tư, trong đó có những dự án đầu tư trọng điểm là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất. Đến hết tháng 9.2021, bình quân giải ngân toàn quốc 47,8 % nhưng riêng ngành giao thông vận tải đã giải ngân 61,2%. Điều này nó cũng thể hiện sự quyết tâm của Bộ Giao thông Vận tải.
Tuy nhiên, so với yêu cầu, trong đó có hai dự án trọng điểm quốc gia, ngành cũng nhìn nhận là trong giai đoạn vừa qua triển khai còn chậm và có nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan. Bộ trưởng thừa nhận hai dự án trọng điểm quốc gia là sân bay Long Thành và cao tốc Bắc Nam phía đông giai đoạn 2017-2021 đều chậm tiến độ.
Đối với dự án đường cao tốc Bắc Nam phía Đông, tại Nghị quyết 52 của Quốc hội năm 2017 quyết nghị có 3 dự án đầu tư công và 8 dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư PPP. Với 3 dự án đầu tư công, đến thời điểm này ngành đã bám sát nghị quyết và cuối năm nay sẽ hoàn thành 2 dự án Cao Bồ - Mai Sơn và Cam Lộ - La Sơn. Riêng cầu Mỹ Thuận 2 đến thời điểm này tiến độ cũng đã đạt được 70%.
Vào tháng 6.2020, trước tinh thần đấu thầu, lựa chọn nhà đầu tư theo hình thức đối tác công tư, đầu tiên là quốc tế, sau đó xin chủ trương chuyển sang đấu thầu trong nước và tổ chức đấu thầu gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do các nhà đầu tư lớn về tài chính thì ít tham gia, mà các nhà đầu tư với dự án, nhà thầu lớn lại quan tâm. Và đặc biệt là năm 2020, do ảnh hưởng của Covid-19 Chính phủ đã đề xuất Quốc hội triển một số dự án sang đầu tư công để kích cầu và đẩy nhanh tiến độ. Và tháng 6.2020, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 1173 chuyển 3 dự án sang đầu tư công, đồng thời cho phép đến năm 2022 sẽ hoàn thành 3 dự án này; hiện đã đạt tiến độ từ 20 đến 35 %.
Riêng 3 dự án đầu tư theo hình thức PPP hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân sau giai đoạn thu hút vốn cho dự án BOT, thì tình hình tài chính của các ngân hàng, nhất là các ngân hàng thương mại cũng gặp nhiều khó khăn do huy động thì ngắn hạn, mà cho vay thì dài hạn. Do đó, bộ đã làm việc tích cực với các nhà đầu tư để trong tháng 5.2021 và tháng 7.2021 đã ký hợp đồng với ba nhà đầu tư theo hình thức PPP. Theo quy định các nhà đầu tư được thu xếp vốn trong vòng 6 tháng, và đến thời điểm này sắp hết nhưng tình hình thu xếp vốn vẫn gặp nhiều khó khăn. Theo bộ được biết tình hình tới nay các ngân hàng chỉ cam kết cho vay 6000/9300 tỷ phải huy động và các nhà đầu tư cũng đã đề xuất các giải pháp có thể sẽ huy động thêm nguồn lực, có nhà đầu tư hoặc là các cái loại hình khác. Hiện nay bộ đang rất tích cực làm việc với các nhà đầu tư, các ngân hàng để làm sao ký được hợp đồng tín dụng, bởi nếu không thì không triển khai dự án. Vừa qua Phó Thủ tướng Lê Văn Thành đã chỉ đạo là hàng tháng sẽ chủ trì họp riêng cho cao tốc Bắc Nam phía Đông, trong đó có tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho 3 dự án đầu tư theo hình thức PPP. Qua đây cũng thấy, các dự án PPP đang gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn sắp tới.
Liên quan đến dự án sân bay quốc tế Long Thành, sau khi Quốc hội cho chủ trương và Chính phủ phê duyệt, tháng 7.2019, Bộ Giao thông Vận tải đã trình dự án lên Chính phủ, Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức thẩm định, cho phép Bộ Kế hoạch và Đầu tư thuê tư vấn nước ngoài để thẩm định lại toàn bộ dự án sân bay quốc tế Long Thành. Vì vậy dự án này đã kéo dài thời gian thẩm định trong lúc tư vấn nước ngoài phản biện toàn bộ dự án.
Đến tháng 12.2020, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng chính thức phê duyệt ACV là chủ đầu tư giai đoạn 1. Trong 11 tháng vừa qua, Tổng công ty này triển khai công tác cũng tương đối tốt, đến thời điểm này đã hoàn thành xây dựng 70% toàn bộ hàng rào khoảng gần 9 km. Thứ hai đã rà phá bom mìn đạt được diện tích 75%. Riêng về giải phóng mặt bằng, dù bố trí cho công tác này là hơn 22000 tỷ đồng, giao cho tỉnh Đồng Nai triển khai từ 2018 đến nay, nhưng công tác giải ngân còn chậm, mới đạt là 47 % (khoảng hơn 10 nghìn tỷ đồng).
Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cho biết, theo tìm hiểu, công tác giải phóng mặt bằng chậm do liên quan đến tiến độ xây dựng các khu tái định cư, rồi công tác kiểm đếm, xây dựng giá và đặc biệt là trong thời gian qua bị ảnh hưởng bởi Covid-19. Bộ cam kết sẽ phối hợp chặt chẽ với Đồng Nai để bàn nhau toàn bộ mặt bằng theo tiến độ. Tuy nhiên, đến thời điểm này với 1265 ha đã được bàn giao, thì cũng không ảnh hưởng đến tiến độ của AVC. Bộ mong lãnh đạo tỉnh Đồng Nai tích cực hơn nữa đấy, giải ngân vốn, giải phóng mặt bằng, thực hiện chu đáo công việc này.
Phó Thủ tướng Lê Văn Thành đã chỉ đạo sẽ tổ chức họp mỗi tháng một lần trực tuyến một lần để ACV, Ủy ban quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, tỉnh Đồng Nai cùng với Bộ Giao thông vận tải và các bộ, ngành tham mưu cho Chính phủ, làm sao phải đảm bảo tiến độ.
“Nếu không có gì thay đổi thì tháng 3.2022 sẽ tiến hành đồng loạt các gói thầu về san lấp mặt bằng và xây dựng hạ tầng để đảm bảo là tới tháng 12.2025 chúng ta cơ bản hoàn thành giai đoạn 1 để mà khai thác sân bay Long Thành đúng theo tinh thần Nghị quyết 52 và các nghị quyết Quốc hội đã thông qua,” Bộ trưởng phát biểu.
Đang hoàn thiện khung định hướng quy hoạch tổng thể quốc gia
ĐBQH Trần Văn Tiến (Vĩnh Phúc) chất vấn, theo Báo cáo của Chính phủ, công tác lập quy hoạch đến thời điểm hiện nay đang được triển khai cho một số loại quy hoạch ở bước lập quy hoạch, xin ý kiến thẩm định và chưa có quy hoạch quốc gia nào được phê duyệt. Vậy Bộ trưởng đánh giá như thế nào về tiến độ lập quy hoạch quốc gia hiện nay theo Luật Quy hoạch năm 2017? Giải pháp nào để đến năm 2022 cơ bản hoàn thành việc lập, phê duyệt các quy hoạch quốc gia thời kỳ 2021 - 2030 như Báo cáo của Chính phủ?
Trả lời chất vấn của ĐBQH Trần Văn Tiến, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng, công tác lập quy hoạch là vấn đề hết sức quan trọng. Tuy nhiên, sau khi ban hành Luật Quy hoạch, việc triển khai đang còn rất chậm. Việc này có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên nhân khách quan là lần đầu tiên chúng ta thực hiện và theo phương pháp thích hợp để làm quy hoạch tổng thể. Trước đó, chưa làm quy hoạch tổng thể, chỉ là kế hoạch từng ngành do nhiều ngành,nhiều quy hoạch trên địa bàn cùng một vùng nên Quốc hội đã ban hành Luật Quy hoạch và cho phép tích hợp tất cả các quy hoạch này vào quy hoạch tổng thể. Đây là lần đầu tiên chúng ta làm quy hoạch tích hợp nên năng lực của tư vấn, kiến thức của các cơ quan hiện nay còn chưa theo kịp. Số lượng công việc lớn, đồng thời trong cùng một thời gian phải làm quy hoạch từ trên xuống và từ dưới lên do đó, cách hiểu và hiện đang còn đang rất khó.
Đến thời điểm này, đối với quy hoạch tổng thể quốc gia chúng tôi đã xây dựng xong khung định hướng và đang hoàn thiện đã để trình Thủ tướng Chính phủ. Các quy hoạch của 5 vùng còn lại cũng đã cơ bản xong phần nghiên cứu và đang lấy ý kiến hoàn thiện để trình Thủ tướng Chính phủ trong thời gian sớm nhất. Qua đó, các địa phương và các Bộ, ngành dựa trên khung định hướng này có thể triển khai lập các hoạch của ngành, địa phương, không nhất thiết là phải chờ xong toàn bộ quy hoạch ở cấp trên, rồi mới thực hiện lập quy hoạch ở cấp dưới.
Đối với cải cách quy hoạch ngành, đến nay đã có 19/38 quy hoạch đã hoàn thành. Đối với quy hoạch tỉnh, đã có 20/63 quy hoạch hoàn thành. Về tiến độ, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã có 2 Nghị quyết để đôn đốc vấn đề này và yêu cầu tất cả các quy hoạch từ quốc gia đến quy hoạch ngành dịch vụ và của tỉnh phải hoàn thành trước ngày 31.12.2022...
Rà soát, điều chỉnh để có môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, an toàn, hấp dẫn hơn
ĐBQH Đỗ Đức Hồng Hà (TP. Hà Nội) chất vấn 3 vấn đề. Thứ nhất, môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch. Thứ hai, chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Đề nghị Bộ trưởng cho biết trách nhiệm của Bộ trưởng về hai vấn đề nêu trên và giải pháp khắc phục trong thời gian tới? Thứ ba, thể chế phát triển điều phối kinh tế vùng chưa được quan tâm và chậm được cụ thể hóa bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng lẻo. Đại biểu gửi đến Thủ tướng Chính phủ để làm rõ giải pháp khắc phục vấn đề này trong thời gian tới?
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, đúng là về môi trường đầu tư kinh doanh có rất nhiều vấn đề. Chúng ta đã có bước tiến quan trọng được cộng đồng trong nước, quốc tế đánh giá cao, các thang hạng, thăng bậc của chúng ta trên các bảng xếp hạng quốc tế liên tục tăng cao trong những năm qua, có Nghị quyết 02 trước đây, bây giờ là Nghị quyết 19 về cải cách thủ tục hành chính, môi trường đầu tư và nâng cao sức cạnh tranh nền kinh tế. Bộ trưởng cho rằng, với đầy đủ hệ thống giải pháp và tổ chức triển khai thực hiện mang lại kết quả tích cực. Tuy nhiên còn có những vấn đề cần rà soát, điều chỉnh để có môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, an toàn hơn, hấp dẫn cho nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài, nhất là hệ thống pháp luật. Các thủ tục hành chính, điều kiện đất đai, mặt bằng, hạ tầng, nhân lực, thái độ thân thiện các địa phương với các nhà đầu tư, nếu không tốt thì môi trường đầu tư không tốt thì họ sẽ đi địa phương khác hoặc là đi nước khác. Bộ trưởng nhấn mạnh, cần tăng cường công tác này hơn trong thời gian tới.
Về huy động và sử dụng nguồn lực đất nước có nhân lực, vật lực và tài lực. Đã có nhiều kết quả tốt huy động nguồn lực này cho phát triển đất nước nhưng vẫn còn có những khiếm khuyết, lãng phí, thất thoát, chưa hiệu quả… Điều này đã xác định trong chiến lược 10 năm, kế hoạch 5 năm, để huy động được trong dân, phân bổ, sử dụng hiệu quả phục vụ phát triển đất nước.
Về liên kết vùng, đây là vấn đề quan trọng nhưng chưa làm được bao nhiêu vì chúng ta không có thể chế vùng, ngân sách vùng, cơ chế điều phối để liên kết vùng. Thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tiếp tục nghiên cứu để từ quy hoạch vùng, cơ chế liên kết, điều phối trong phát triển vùng, rồi có các đầu tư tham mưu cho Chính phủ đầu tư cho công trình mang tính liên vùng thì khi đó liên kết vùng mới thực sự hiệu quả và có ý nghĩa.
Trung ương có thể hỗ trợ một phần làm tuyến vành đai 3, 4 của TP. Hồ Chí Minh
ĐBQH Trần Hữu Hậu (Tây Ninh) cho rằng, mối quan tâm và mong đợi của cử tri Đông Nam Bộ nói chung và Tây Ninh nói riêng, đó là kết cấu hạ tầng giao thông và các tỉnh, thành phía Nam, trong đó có Đông Nam Bộ còn rất khó khăn, đang là điểm nghẽn phát triển trong một khu vực phát triển năng độc nhất của đất nước. Với những tác động vừa qua của dịch bệnh, ngân sách của nhiều tỉnh không còn nguồn từ dành cho đầu tư phát triển. Xin được hỏi Bộ trưởng dự án trọng điểm quốc gia như Vành đai 3 TP. Hồ Chí Minh và các dự án cao tốc thuộc nhiệm vụ chi của Trung ương nhưng đã giao cho địa phương là cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư như vành đai 4, cao tốc TP. Hồ Chí Minh Mộc - Bài sẽ có kế hoạch và đầu tư như thế nào? Bộ trưởng có bố trí trong chương trình phục hồi kinh tế đang dự kiến trình Chính phủ và Quốc hội hay không?
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, về đường vành đai 3 và đường vành đai 4 của TP. Hồ Chí Minh đã có trong quy hoạch phát triển mạng lưới đường bộ của TP. Hồ Chí Minh vừa mới được phê duyệt. Đây là hai tuyến đường rất quan trọng, không những có ý nghĩa về mặt kinh tế, đó là mở rộng không gian phát triển cho các TP. Hồ Chí Minh, giảm tải cho TP. Hồ Chí Minh, giảm tắc nghẽn giao thông mà nó còn mở ra không gian cho cả vùng Đông và Tây Nam bộ.
“Chúng tôi cũng hoàn toàn ủng hộ tuyến đường này cần được hoàn thành đầu tư sớm. Tuy nhiên, nguồn lực phải tính toán và cân nhắc để đảm bảo tính khả thi. Hiện nay, Chính phủ đã giao cho TP. Hồ Chí Minh là cơ quan có trách nhiệm, là đại diện cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xây dựng dự án này và các tỉnh trong vùng cũng đang cùng tham gia cùng TP Hồ Chí Minh để xác định tổng mức đầu tư, trách nhiệm của từng địa phương khi tham gia”, Bộ trưởng nói.
Về phía Bộ Kế hoách và Đầu tư, Bộ trưởng cho biết hoàn toàn ủng hộ theo hướng, nếu các địa phương có khó khăn thì Trung ương có thể tham gia hỗ trợ một phần bằng các phương án như phát hành trái phiếu, cho vay lại hoặc là tham gia hỗ trợ một phần cùng với các địa phương để có thể thực hiện nhanh, ngay tuyến đường này, vừa phục hồi kinh tế, vừa là hạ tầng chiến lược lâu dài cho cả vùng Đông Nam bộ và Tây Nam bộ.
"Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ cùng các bộ, ngành nghiên cứu kỹ về phương án và sẽ báo cáo với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để quyết định"- Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết.
Chưa nên sửa Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trả lời ĐBQH Nguyễn Văn Thân (Thái Bình) về quan điểm có sửa Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho rằng, đây là luật quan trọng mới ban hành. Chính phủ cũng mới ban hành Nghị định 80 hướng dẫn thực hiện các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp trong Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và chúng ta đang triển khai thực hiện. Vì thế, hiện nay nếu cần những vấn đề gì nữa hỗ trợ tiếp cho doanh nghiệp thì Chính phủ chỉ đạo, rà soát, nghiên cứu bổ sung Nghị định 80 này. Trong thời gian tới chúng ta tập trung triển khai thực hiện Nghị định 80, tập trung hỗ trợ cụm liên kết ngành, chuyển đổi số cho doanh nghiệp. Đây là những việc hết sức quan trọng và cần làm ngay để có hiệu quả với doanh nghiệp. Đặt vấn đề sửa luật là chưa nên, chậm lại có đánh giá tổng kết sau.
Không thể có cơ chế chính sách đặc thù riêng cho tất cả các địa phương
Về ý kiến của ĐBQH Nguyễn Tạo (Lâm Đồng), về việc thí điểm các cơ chế chính sách đặc thù địa phương cần điều tiết gì. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư Nguyễn Chí Dũng nêu rõ, vừa qua, Bộ Chính trị, Quốc hội có cho phép một số địa phương ban hành một số chính sách đặc thù. Trước hết, chúng ta cần dựa vào tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, vai trò địa phương trong nền kinh tế. Đây là cực tăng trưởng nằm trong các vùng động lực, vừa cực tăng trường có sức lan toả, thu hút, có đóng góp rất lớn cho ngân sách, giải quyết việc làm. Có nhiều tiềm năng sẵn có khơi dậy, phát huy và nhiều đóng góp nhanh hơn cho nền kinh tế và cho các địa phương khác.
Tuy nhiên, Bộ trưởng khẳng định, điều đó có nghĩa, không phải chúng ta không quan tâm địa phương khác, và cũng không phải địa phương nào cũng có cơ chế chính sách đặc thù. Điều kiện xem xét có chính sách đặc thù cũng phải dựa trên các điều kiện đóng góp của mỗi địa phương Chẳng hạn, địa phương đó phải đóng góp nhiều hơn, nhanh hơn như thế nào. Các địa phương khác dùng các chính sách khác, chứ không phải có cơ chế chính sách đặc thù riêng cho tất cả các địa phương
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ: Gói kích thích kinh tế phải chú trọng cả tổng cung, tổng cầu
Kết thúc phiên chất vấn Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đánh giá nội dung chất vấn và trả lời chất vấn về nhóm vấn đề thứ 4.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đánh giá phiên chất vấn đối với lĩnh vực kế hoạch và đầu tư diễn ra sôi nổi với tinh thần trách nhiệm cao. Các đại biểu đã đặt câu hỏi ngắn gọn và đúng, đi thẳng vào vấn đề. Trong nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XIV, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã trả lời chất vấn tại các Kỳ họp thứ Ba, thứ Sáu và thứ Mười, cùng với việc giải trình tại các Phiên họp về kinh tế - xã hội của các Kỳ họp. Bộ trưởng đã có nhiều kinh nghiệm, nắm chắc thực trạng, vấn đề thuộc lĩnh vực quản lý với tinh thần cầu thị, trả lời đầy đủ, thẳng thắn, đa số các câu hỏi của đại biểu đều được Bộ trưởng có phương án cụ thể để xử lý và đề xuất định hướng trong thời gian tới.
Chủ tịch Quốc hội cho rằng, thời gian qua, trước diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp chặt chẽ với các bộ ngành, tham mưu với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều giải pháp, chính sách để để hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, phục hồi kinh tế, góp phần giảm bớt những khó khăn của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp duy trì ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh và việc làm cho người lao động. Thủ tục chuẩn bị kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2021-2025 đã tuân thủ thứ tự ưu tiên bố trí vốn theo quy định pháp luật, cơ bản đã khắc phục được tình trạng đầu tư manh mún, dàn trải, kém hiệu quả.
Tuy nhiên, theo Chủ tịch Quốc hội, quy mô các chính sách hỗ trợ tương đối thấp, chỉ tương đương khoảng 4 % tổng lượng GDP. Một số bộ ngành và địa phương chưa phân bổ hết kế hoạch vốn được giao, việc giải ngân vốn đầu tư còn chậm, nhất là vốn ODA, việc triển khai một số dự án quan trọng quốc gia bị chậm tiến độ, nhất là dự án sân bay quốc tế Long Thành và dự án đường bộ cao tốc phía Đông giai đoạn I vẫn còn những khó khăn, vướng mắc nên tiến độ giải ngân chưa như mong muốn.
Qua phiên chất vấn này, Chủ tịch Quốc hội đề nghị, Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ trưởng, Trưởng ngành có liên quan, tiếp thu tối đa ý kiến góp ý của các đại biểu Quốc hội, chỉ đạo quyết liệt thực hiện các giải pháp đã đề ra nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, trong đó tập trung vào 4 vấn đề chính sau đây.
Thứ nhất, ngay trong năm 2021, chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Quốc hội để giúp cho Chính phủ xây dựng và triển khai chương trình tổng thể phục hồi và phát triển kinh tế sau dịch Covid-19. Gắn với nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế, gắn với khung khổ đầu tư công trung hạn, kế hoạch tài chính ngân sách, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và kế hoạch tái cơ cấu kinh tế 5 năm.
Việc thiết kế các gói, các chương trình phục hồi phát triển kinh tế sau đại dịch, gắn với việc xây dựng gói kích thích kinh tế bằng tài khóa và tiền tệ trong thời gian tới. Các đại biểu Quốc hội đều nhấn mạnh, gói kích thích tới đây là phải chú trọng cả vấn đề tổng cung và tổng cầu, không chỉ là phục hồi kinh tế mà ccòn phục hồi, phát triển xã hội. Chương trình tổng thể phục hồi phát triển kinh tế cũng cần có lộ trình phù hợp, đồng thời cần có trọng tâm, trọng điểm, có tính khả thi cao và dẫn vốn được vào khu vực thực sự cấp bách và cần thiết có khả năng hấp thụ được vốn.
Xây dựng những chương trình quản lý rủi ro đảm bảo cho việc huy động, phân bổ các nguồn lực công khai, minh bạch, đúng mục đích, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí, chống lợi ích nhóm, lợi ích tiêu cực trong quá trình phân bổ và sử dụng các gói hỗ trợ này. Chương trình tổng thể phục hồi, phát triển kinh tế phải dựa trên cơ sở đánh giá sâu sắc, toàn diện những tác động của dịch Covid-19 đến tình hình kinh tế xã hội của nước ta, các xu hướng đầu tư kinh doanh sau đại dịch, tình hình kinh tế của khu vực và thế giới.
Thứ hai, về đầu tư công và các công trình quan trọng quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần tham mưu với Chính phủ phân tích, đánh giá kỹ lưỡng thực trạng tình hình, xác định nguyên nhân khách quan và chủ quan, xác định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan và trách nhiệm của người đứng đầu để có biện pháp quyết liệt trong việc chuẩn bị đầu tư, phân bổ vốn, giải ngân kế toán, quyết toán vốn đầu tư. Cần có giải pháp quyết liệt, hiệu quả, phấn đấu phân bổ và giải ngân năm 2021 đạt 90%. Phân bổ, giao vốn và giải ngân năm 2022 đạt được 100% dự toán do Quốc hội giao.
Thứ ba, về một số thể chế, chính sách, đại biểu Quốc hội nhấn mạnh Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần tham mưu cho Chính phủ khẩn trương, quyết liệt triển khai, nhanh chóng xây dựng các quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh để phê duyệt theo quy định của Luật Quy hoạch. "Phải đi trước một bước theo cam kết của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Thời điểm hoàn thành nội dung này chậm nhất là ngày 31.12.2022. Trong đó lưu ý, quy hoạch phát triển đồng bằng sông Cửu Long phải xong trước tháng 12.2021" - Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh.
Đồng thời, khẩn trương chủ trì, phối hợp cơ quan để trình Quốc hội xem xét kỹ đề án thí điểm tách công tác giải phóng mặt bằng, dự án tái định cư ra khỏi các dự án đầu tư công và tháo gỡ các điểm nghẽn cho đầu tư sản xuất kinh doanh trong một số luật và sửa một số luật sớm trình Quốc hội xem xét, quyết định trong thời gian tới.
Thứ tư, đối với việc chuẩn bị các dự án đầu tư trọng điểm quốc gia trong thời gian tới, cần phải được chuẩn bị kỹ lưỡng theo đúng quy trình, có ý kiến của cơ quan kiểm toán nhà nước. Những dự án trọng điểm quốc gia này cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng theo đúng quy trình và cân nhắc đến tính khả thi, nhất là vấn đề huy động vốn. Chính phủ có những giải pháp tiếp tục hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn này để tiếp tục phục hồi và phát triển kinh tế.