Tọa đàm trực tuyến “Liên kết đào tạo đại học với nước ngoài tại Việt Nam: Thực trạng và định hướng phát triển”

Một trong những phương thức tăng cường quốc tế hoá giáo dục đại học mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra là đẩy mạnh hợp tác với các cơ sở Giáo dục đại học nước ngoài có uy tín thông qua việc thực hiện các chương trình liên kết đào tạo với các trường đại học trên thế giới.

Đang diễn ra Tọa đàm trực tuyến “Liên kết đào tạo đại học với nước ngoài tại Việt Nam: Thực trạng và định hướng phát triển” -0
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại buổi tọa đàm

Tuy nhiên, theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, hoạt động liên kết này đã nảy sinh một số hạn chế như việc lựa chọn cơ sở giáo dục đại học đối tác nước ngoài chưa thực sự đẳng cấp, hạn chế trong chất lượng tuyển sinh đầu vào theo Nghị định 86/2018/NĐ-CP về Quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục và hạn chế trong sự lan tỏa chất lượng đào tạo cho các chương trình trong nước…Thực tế này đã làm mất đi phần nào ý nghĩa và sứ mệnh của các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài.

Trước thực trạng đó, Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức Toạ đàm: “Liên kết đào tạo đại học với nước ngoài tại Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển” nhằm trao đổi, lấy ý kiến các chuyên gia, nhà quản lý trong việc triển khai chương trình Liên kết đào tạo với nước ngoài tại Việt Nam về những kết quả đạt được, về những tồn tại, hạn chế và những đề xuất, định hướng phát triển cho chương trình ngày nâng cao chất lượng hiệu quả, đảm bảo mục tiêu đã đề ra.

Đang diễn ra Tọa đàm trực tuyến “Liên kết đào tạo đại học với nước ngoài tại Việt Nam: Thực trạng và định hướng phát triển” -1
Quang cảnh tọa đàm

Các khách mời tham gia Tọa đàm gồm:

- Bà Nguyễn Thị Mai Hoa, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc  hội;

- PGS.TS Nguyễn Thu Thuỷ, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục- Đào tạo;

- GS.TS Trần Thị Vân Hoa, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế Quốc dân;

- PGS.TS Nguyễn Thành Hiếu, Viện trưởng Viện Đào tạo Quốc tế, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân;

- TS Trần Đức Quỳnh, Trưởng phòng Đào tạo Trường Quốc tế - ĐH Quốc gia Hà Nội;

- PGS.TS Đào Ngọc Tiến, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Ngoại thương

- PGS.TS Hồ Thúy Ngọc, Trưởng khoa Đào tạo quốc tế, Trường ĐH Ngoại thương.

Video: Tọa đàm trực tuyến “Liên kết đào tạo đại học với nước ngoài tại Việt Nam: Thực trạng và định hướng phát triển”

Phó Tổng biên tập Báo Đại biểu Nhân dân Lê Thanh Kim: Liên kết đào tạo đại học với nước ngoài - Mở ra cơ hội cho sinh viên có bằng cấp quốc tế với chi phí thấp hơn du học, có việc làm tốt hơn

Kính thưa quý vị đại biểu,

Trong xu hướng du học hiện nay đang trở nên bão hoà, các quốc gia là điểm đến du học nổi tiếng trên thế giới chuyển dần sang việc cung cấp các chương trình học cho sinh viên quốc tế tại chính nước sở tại. Bên cạnh đó, một trong những phương thức tăng cường quốc tế hóa giáo dục đại học mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra là đẩy mạnh hợp tác với các cơ sở giáo dục đại học quốc tế có uy tín thông qua việc thực hiện các Chương trình liên kết đào tạo với các trường đại học trên thế giới.

Phó Tổng biên tập Báo Đại biểu Nhân dân Lê Thanh Kim: Liên kết đào tạo đại học với nước ngoài- Mở ra cơ hội cho sinh viên có bằng cấp quốc tế với chi phí thấp hơn du học, có việc làm tốt hơn
Phó Tổng biên tập Báo Đại biểu Nhân dân Lê Thanh Kim phát biểu khai mạc tọa đàm

Theo đó, Chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài được các trường đại học mở ra nhằm mang lại cho sinh viên cơ hội có bằng cấp quốc tế với chi phí thấp hơn du học và có việc làm tốt hơn; đồng thời giúp các cơ sở giáo dục đại học quảng bá hình ảnh và cải thiện chất lượng giảng dạy, nghiên cứu. 

Liên kết đào tạo đại học ở Việt Nam đã được thực hiện từ lâu nhưng đến năm 2005 công tác kiểm định chất lượng mới được đưa vào Luật Giáo dục (sửa đổi) và tới năm 2012 mới có quy định cụ thể về liên kết đào tạo.

Khi thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, các cơ sở giáo dục đại học đã đẩy mạnh việc phát triển hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong, cải tiến nâng cao chất lượng, thực hiện tốt việc công khai giải trình với xã hội. Tiếp đến Nghị định 86/2018/NĐ-CP về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục ra đời đã cung cấp căn cứ pháp lý rõ ràng hơn về quy trình đảm bảo và kiểm định chất lượng liên kết đào tạo. 

Phó Tổng biên tập Báo Đại biểu Nhân dân Lê Thanh Kim: Liên kết đào tạo đại học với nước ngoài- Mở ra cơ hội cho sinh viên có bằng cấp quốc tế với chi phí thấp hơn du học, có việc làm tốt hơn
Quang cảnh tọa đàm

Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2022, số lượng Chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài đang hoạt động giảm còn hơn 300 Chương trình (năm 2021, cả nước có 408 Chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài đang hoạt động).

Bên cạnh đó, còn hạn chế trong chất lượng tuyển sinh đầu vào và hạn chế về việc hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam không thu được những tác động tích cực từ các Chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài… Thực tế này đã làm mất đi phần nào ý nghĩa và sứ mệnh của các Chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài.

Chính vì vậy, Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức Toạ đàm: “Liên kết đào tạo đại học với nước ngoài tại Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển”. Các khách mời tham dự cùng bàn về thực trạng liên kết đào tạo đại học với nước ngoài hiện nay và các vấn đề còn khó khăn, vướng mắc và thách thức của chương trình, đề xuất các giải pháp nhằm phát huy các yếu tố tích cực, định hướng để chương trình liên kết đào tạo đại học với nước ngoài phát triển tốt trong thời gian tới.  

Thay mặt Báo Đại biểu Nhân dân, tôi trân trọng cảm ơn các vị khách mời đã tham dự buổi Toạ đàm hôm nay. Trân trọng cảm ơn các báo, đài đã tới dự và đưa tin. Xin chúc các Toạ đàm thành công! Chúc các khách mời thật nhiều sức khoẻ, hạnh phúc và thành công!

Xin trân trọng cảm ơn!

Thực trạng các chương trình liên kết đào tạo nước ngoài tại Việt Nam

Thưa bà Nguyễn Mai Hoa, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục cỉa Quốc hội, từ khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học có hiệu lực thi hành, các cơ sở giáo dục đại học trong cả nước nếu đủ điều kiện tự chủ theo quy định của Luật được tự chủ mở ngành đào tạo và mở chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, bà có thể nói cụ thể hơn về vấn đề này? Và việc tự chủ về liên kết đào tạo này có ý nghĩa như thế nào trong việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam hiện nay?

Bà Nguyễn Thị Mai Hoa, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội:

Vấn đề quốc tế hóa giáo dục đại học là một thực tiễn, là xu hướng và thực sự đang tạo ra những thay đổi rất lớn cho giáo dục đại học Việt Nam. Khi chúng ta đang hội nhập quốc tế, việc quốc tế hóa giáo dục đại học, liên kết đào tạo với quốc tế là yêu cầu, đòi hỏi mà thực tiễn đặt ra. Từ khi Luật Giáo dục đại học được sửa đổi, bổ sung, việc tạo hành lang pháp lý đủ để có thể triển khai bài bản, đúng luật trong việc tổ chức chương trình liên kết đã được quan tâm.

Thưa bà Nguyễn Mai Hoa, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục cỉa Quốc hội, từ khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học có hiệu lực thi hành, các cơ sở giáo dục đại học trong cả nước nếu đủ điều kiện tự chủ theo quy định của Luật được tự chủ mở ngành đào tạo và mở chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, bà có thể nói cụ thể hơn về vấn đề này? Và việc tự chủ về liên kết đào tạo này có ý nghĩa như thế nào trong việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam hiện n
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội Nguyễn Thị Mai Hoa chia sẻ tại tọa đàm

Quy định của luật trao cho các trường quyền tự chủ, trong đó có tự chủ về chuyên môn học thuật. Trong tự chủ chuyên môn học thuật, vấn đề đào tạo, tuyển sinh, liên kết đào tạo trong nước và ngoài nước là trọng tâm của tự chủ. Điều này đã quy định rõ ở Điều 32. Khi sửa Luật năm 2018, quy định tự chủ đại học tiếp tục được khẳng định và được làm rõ hơn ở một số nội dung.

Về các văn bản dưới luật, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư 22/2017/TT-BGDĐT, đặt ra những điều kiện, trình tự thủ tục khá cụ thể để tạo điều kiện thuận lợi cho các trường đại học liên kết đào tạo. Tôi muốn nhấn mạnh 2 điều: Thông tư 22 đã quy định về thẩm quyền cho phép đào tạo và liên kết đào tạo theo hướng giao quyền ngày càng rộng hơn so với Thông tư 08, chẳng hạn quy định cho Giám đốc Đại học Quốc gia tự chủ quyết định mở ngành đào tạo đối với các cơ sở giáo dục trong đại học và các trường đại học thành viên. Hoặc Giám đốc đại học vùng được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ủy quyền cho việc quy định mở ngành đào tạo ở các trường thành viên. Thủ trưởng các cơ quan đào tạo được công nhận đạt chuẩn quốc gia hoặc được giao quyền tự chủ một ngành đào tạo cũng được quyền thực hiện. Các quyền này được giao rõ hơn.

Nhưng bên cạnh đó, tôi ghi nhận quy định các điều kiện mở mã ngành đào tạo cũng được chặt chẽ hơn, yêu cầu cũng cao hơn so với Thông tư 08. Khi trao quyền gắn với những yêu cầu, điều kiện cụ thể là cách tạo cơ hội cho các trường đại học cùng thực hiện tự chủ mở mã ngành cũng như chất lượng được tốt hơn.

Việc liên kết đào tạo với các nước sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Du nhập các chương trình tiên tiến của các nước giúp cho các trường đại học được tiệm cận dần với các chương trình tiên tiến. Đây là cơ hội để giáo dục đại học nước ta rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực và thế giới.

Với cơ sở giáo dục đại học cũng như các đối tượng liên quan từ giảng viên đến sinh viên: Các cơ sở giáo dục đại học thông qua chương trình liên kết đào tạo có cơ hội khẳng định mình rõ hơn, thầy cô giáo có cơ hội giao lưu, mở mang trình độ. Còn người học được học chương trình quốc tế, trao bằng quốc tế, học tại chỗ ít tốn kém chi phí hơn, có điều kiện gần gia đình. Khi có bằng quốc tế, cơ hội tìm việc làm, điều kiện làm việc sẽ tốt hơn. Các bên liên quan đều có lợi, đó là ý nghĩa quan trọng.

Thưa bà Nguyễn Mai Hoa, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục cỉa Quốc hội, từ khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học có hiệu lực thi hành, các cơ sở giáo dục đại học trong cả nước nếu đủ điều kiện tự chủ theo quy định của Luật được tự chủ mở ngành đào tạo và mở chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, bà có thể nói cụ thể hơn về vấn đề này? Và việc tự chủ về liên kết đào tạo này có ý nghĩa như thế nào trong việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam hiện n

Xu hướng đi du học trước đây nay đã bão hòa và chuyển dần sang xu hướng chuyển giao chương trình đào tạo cho các nước sở tại có đông sinh viên học. Các nước có nền đại học đang trong xu hướng phát triển cũng đang tiếp cận xu hướng này, tức là thông qua chương trình liên kết đào tạo để giữ chân sinh viên ở trong nước. Tôi nghĩ hai xu hướng này đang có chiều hướng gặp nhau, chúng ta phải chớp xu hướng này.

Chúng ta cần xem việc liên kết đào tạo này vừa là cơ hội vừa là thách thức. Liên kết đào tạo có nhiều cái lợi nếu chớp được cơ hội, trong quá trình tiếp cận các nội dung liên kết đào tạo, đối tác đào tạo đúng sẽ nâng tầm giáo dục đại học, người học của chúng ta có lợi. Nhưng nếu lựa chọn không chuẩn xác, đối tác liên kết không đúng tầm, sẽ là bất lợi. Đây là những điều cần lưu ý trong quá trình thực hiện.

Thưa bà Nguyễn Thu Thuỷ, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đàotạo, bà có thể cho biết kết quả đạt được về liên kết đào tạo của giáo dục đại học Việt Nam hiện nay sau khi các trường thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học và thực hiện Nghị định 86 của Chính phủ về hợp tác đầu tư với nước ngoài, cụ thể là liên kết đào tạo với nước ngoài tại Việt Nam? Quy mô sinh viên học các chương trình liên kết đào tạo hiện nay trên cả nước là bao nhiêu, theo học ở các khối ngành đào tạo nào? Các nước nào có thị phần đầu tư theo hình thức liên kết đào tạo nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay?

PGS.TS Nguyễn Thu Thuỷ, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo:

Sau khi thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học cũng như Nghị định 86, chúng ta đã có sự tập trung nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt là các chương trình liên kết đào tạo với các trường đại học nước ngoài. Chúng ta cũng có thể thấy sự chuyển biến mạnh mẽ trong nội tại các trường đại học khi có sự liên kết hợp tác giảng dạy với các trường đại học nước ngoài, đó là việc nâng cao chất lượng đội ngũ trong quá trình giảng dạy, sự tiếp thu những công nghệ mới. Sự chuyển giao này thực sự mang lại những điều tích cực.

- Thưa bà Nguyễn Thu Thuỷ, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, bà có thể cho biết kết quả đạt được về Liên kết đào tạo của giáo dục đại học Việt Nam hiện nay sau khi các trường thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học và thực hiện Nghị định 86 của Chính phủ về hợp tác đầu tư với nước ngoài, cụ thể là liên kết đào tạo với nước ngoài tại Việt Nam? Quy mô sinh viên học các chương trình liên kết đào tạo hiện nay trên cả nước là bao nhiêu, theo học ở cá
Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục- Đào tạo PGS.TS Nguyễn Thu Thuỷ chia sẻ tại tọa đàm

Liên quan đến quy mô sinh viên, chúng ta cũng không nên tập trung quá nhiều về số lượng. Cho đến thời điểm năm 2022, toàn hệ thống có sự giảm nhẹ, hiện nay có hơn 300 chương trình, có một số chương trình đã hết hạn và chưa có quyết định gia hạn cũng như có một số chương trình mới mở ra có sự dịch chuyển dần sang lĩnh vực khoa học công nghệ. Đó là xu hướng tốt. Tuy nhiên, xét tỉ trọng các chương trình đào tạo liên kết nước ngoài hiện nay thì hơn 60% tập trung ở khối ngành kinh tế, quản lý, ngay trong tọa đàm này chúng ta cũng có đại diện của các khối ngành này. Còn 25% là các chương trình liên quan khoa học công nghệ và chỉ 10% là chương trình của các khối ngành khác. Xét về trình độ đào tạo, trong các chương trình đào tạo quốc tế chủ yếu là trình độ đại học, rất hiếm chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ. Do đó, hướng đi tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo mong muốn đẩy mạnh hơn nữa các chương trình liên kết đào tạo sau đại học.

Tất nhiên, việc tăng cường tiếp cận giáo dục đại học nói chung nằm trong mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước. Trong dự thảo chiến lược phát triển giáo dục thời gian tới mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Thủ tướng Chính phủ, chúng tôi đặt mục tiêu là 260 sinh viên đại học/1 vạn  dân, thay vì 190 sinh viên/1 vạn dân hiện nay. Đây có thể bị coi là con số tham vọng nhưng bắt buộc chúng ta phải đạt được để có nguồn nhân lực chất lượng cao ổn định cho công cuộc phát triển của đất nước, cũng như câu chuyện chuyển đổi số quốc gia.  

Nhiều quốc gia hiện nay rất quan tâm đến thị trường giáo dục Việt Nam. Sinh viên Việt Nam có chất lượng đầu vào tốt, các em cũng nhanh nhẹn trong việc tiếp cận với công nghệ mới, với chuyển đổi số, ngoại ngữ đầu vào cũng rất tốt.

Quốc gia hiện nay có nhiều chương trình ở Việt Nam có thể kể đến là Vương quốc Anh, chiếm số lượng lớn và áp đảo. Tiếp theo là Mỹ, Pháp, Úc, sau đó là Hàn Quốc, Nhật, New Zealand… Như vậy, hiện nay có khoảng trên 25.000 sinh viên đang theo học các chương trình liên kết nước ngoài trên cả nước. Số lượng này có thể nói là chưa phải nhiều và chúng ta cũng không nên chạy theo số lượng mà các chương trình mới được mở ra cũng đang chú trọng về chất lượng. Cá nhân tôi khi giám sát việc tuyển sinh đào tạo, tôi thấy rằng đây là xu hướng tốt.

Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cả nước có hơn 300 chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, trong đó có tới 62,71% cơ sở giáo dục đại học đối tác nước ngoài không được xếp hạng hoặc nằm ngoài danh sách 1.000 trường đại học trên thế giới. Trong khi đó, Việt Nam hiện nay có rất nhiều trường đại học, nhiều chương trình đại học đã được xếp hạng và lọt top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới. Vậy, chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài tại Việt Nam có thực sự chất lượng, các đối tác có đảm bảo không? Bộ Giáo dục đã quản lý, thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh, xử lý vi phạm như thế nào thưa bà Nguyễn Thu Thuỷ?

PGS.TS Nguyễn Thu Thuỷ, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo:​​​​​

Thực tế, tiêu chí về xếp hạng không phải là tiêu chí bắt buộc để lựa chọn liên kết đào tạo, cũng không nằm trong quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học cũng như Nghị định 86/2018/NĐ-CP. Tuy nhiên, tất cả các chương trình, bao gồm cả các chương trình liên kết đào tạo được mở ra tại các trường đều được kiểm định, bảo đảm theo các yêu cầu của Luật và Nghị định trên. Dự kiến, trong năm 2023, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ có thông tư về quản lý và đào tạo của chương trình liên kết đào tạo nước ngoài.

Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cả nước có hơn 300 chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, trong đó có tới 62,71% cơ sở giáo dục đại học đối tác nước ngoài không được xếp hạng hoặc nằm ngoài danh sách 1.000 trường đại học trên thế giới. Trong khi đó, Việt Nam hiện nay có rất nhiều trường đại học, nhiều chương trình đại học đã được xếp hạng và lọt top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới. Vậy, chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài tại Việt Nam c

Việc xếp hạng của các trường đối tác trên thế giới không phải là tất cả, bởi lẽ có những trường tốt nhưng không tham dự bất kỳ bảng xếp hạng nào. Tại Việt Nam, việc nhiều trường xuất hiện trong các bảng xếp hạng là động lực để các đối tác chọn lựa liên kết tốt hơn, bởi lẽ, không trường nào muốn liên kết với trường kém hơn mình. Với 6 cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam được xếp hạng trên thế giới đã mở ra cơ hội cho chính các nhà trường trong việc liên kết đào tạo với các trường đại học ở quốc gia khác.

Quản lý các chương trình liên kết đào tạo nằm trong kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm. Việc rà soát không làm khó các nhà trường mà đồng hành, giúp các trường tìm ra khó khăn, vướng mắc, hạn chế để có thể tìm giải pháp làm tốt hơn nữa. Trong trường hợp nếu có những vi phạm, tùy mức độ, chúng tôi sẽ căn cứ theo Nghị định xử phạt hành chính trong giáo dục đào tạo để thực hiện.

Thưa GS.TS Trần Thị Vân Hoa, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân có định hướng, mục tiêu liên kết đào tạo quốc tế như thế nào? Liên kết đào tạo có vai trò và đóng góp gì cho mục tiêu phát triển nhà trường? Nhà trường đã và đang làm gì để đạt mục tiêu đó, thưa bà?

GS.TS Trần Thị Vân Hoa, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế Quốc dân:

Chúng tôi đặt ra rất nhiều mục tiêu, trong đó có 3 mục tiêu chính:

Thứ nhất, tiếp thu công nghệ đào tạo giáo dục đạt chuẩn quốc tế để nâng tầm được các lợi thế của nhà trường trên thị trường giáo dục.

Thứ hai, là cơ hội rất tốt để nâng cao trình độ của đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý chương trình. Chúng tôi không chỉ tiếp thu chương trình đào tạo mà còn tiếp thu công nghệ quản lý đào tạo để đạt được chương trình đẳng cấp quốc tế.

Thứ ba, xây dựng môi trường đào tạo đạt chuẩn quốc tế để tạo cơ hội học tập, du học tại chỗ cho các sinh viên có mong muốn học tập trong các chương trình đào tạo quốc tế.

Thưa GS.TS Trần Thị Vân Hoa, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân có định hướng, mục tiêu liên kết đào tạo quốc tế như thế nào?Liên kết đào tạo có vai trò và đóng góp gì cho mục tiêu phát triển nhà trường? Nhà trường đã và đang làm gì để đạt mục tiêu đó, thưa bà?
Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân GS.TS Trần Thị Vân Hoa chia sẻ tại tọa đàm

Để đạt được những mục tiêu đó, chúng tôi triển khai 5 việc:

Thứ nhất, xây dựng quy chế quản lý đào tạo các chương trình quốc tế để cụ thể hóa các quy định trong Nghị định 86/2018/NĐ-CP thành những quy định, tiêu chí lựa chọn đối tác, cũng như các điều kiện, các thủ tục để quản lý chương trình.

Thứ hai, thường xuyên rà soát và tái cấu trúc các chương trình liên kết quốc tế để bảo đảm các chương trình được kiểm định ở các môi trường, tổ chức uy tín và ưu tiên các quốc gia có trình độ khoa học công nghệ tiên tiến.

Thứ ba, thường xuyên đánh giá công tác đào tạo, đảm bảo môi trường này đạt chuẩn quốc tế để ngày càng hoàn thiện hơn.

Thứ tư, tăng cường hoạt động trao đổi sinh viên và giảng viên để nâng cao trình độ của đội ngũ giảng viên của nhà trường, để giảng viên tham gia các chương trình đào tạo đáp ứng được các yêu cầu của các chương trình quốc tế uy tín.

Thứ năm, xây dựng môi trường học thuật chuẩn quốc tế để giảng viên và sinh viên nước ngoài đến học tập được tốt nhất.

Về lợi ích từ các chương trình hợp tác quốc tế, tôi cho rằng đóng góp quan trọng nhất là việc tiếp thu các công nghệ giảng dạy và các kiến thức mới. Chúng tôi đã mở được 18 chương trình đào tạo bằng tiếng Anh, trong đó có rất nhiều chương trình đào tạo được kiểm định chuẩn quốc tế.

Một lợi ích nữa là rất nhiều giảng viên của nhà trường đã đủ tiêu chuẩn để giảng dạy các chương trình liên kết quốc tế, tỷ lệ giảng viên tham gia các chương trình quốc tế ngày càng tăng lên. Có nhiều giảng viên tốt nghiệp các trường danh tiếng ở nước ngoài tham gia vào các chương trình giảng dạy này.

Nhà trường đa dạng hóa được chương trình giảng dạy, tạo ra môi trường học tập chuẩn mực quốc tế để thu hút được các giảng viên, chuyên gia nước ngoài tới làm việc.

Từ những lợi ích đó đã nâng cao rất nhiều vị thế của nhà trường trong nền giáo dục quốc gia.

Thưa PGS.TS Đào Ngọc Tiến, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Ngoại thương: Trường ĐH Ngoại thương cũng là trường đại học nổi tiếng trong khối ngành kinh tế. Được biết, hiện trường đang có 23 đối tác, đến từ 11 quốc gia ở 4 châu lục, vậy tiêu chí chọn đối tác trong chương trình liên kết quốc tế của nhà trường như thế nào, thứ hạng ra sao? Tuyển sinh đầu vào của nhà trường có đúng như yêu cầu của đối tác đưa ra không thưa ông?

PGS.TS Đào Ngọc Tiến, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Ngoại thương:

Trường Đại học Ngoại thương là một trong những trường đại học hàng đầu và có hoạt động liên kết đào tạo quốc tế khá phát triển. Bởi vì, trường luôn xác định, liên kết đào tạo quốc tế là một bộ phận trong hoạt động tổng thể của nhà trường và có những tác động lan tỏa qua lại với các hoạt động khác. Về tiêu chí lựa chọn đối tác trong hoạt động đào tạo quốc tế, các trường tốt sẽ luôn luôn tìm đến với các trường tốt. Việc lựa chọn đối tác sẽ tùy từng trường, từng giai đoạn nhất định của mỗi trường. Trường Đại học Ngoại thương thực sự được rất nhiều đối tác, rất nhiều các trường đại học tiếp cận đến để có những lời mời, những đề nghị hợp tác. Cho nên, chúng tôi lựa chọn đối tác rất thận trọng, cẩn thận, gắn với chiến lược của Trường Đại học Ngoại thương để trở thành một trường đại học hàng đầu trong khu vực và trên thế giới.

- PGS.TS Đào Ngọc Tiến, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Ngoại thương: Trường ĐH Ngoại thương cũng là trường Đại học nổi tiếng trong khối ngành kinh tế. Được biết, hiện trường đang có 23 đối tác, đến từ 11 quốc gia ở 4 châu lục, vậy tiêu chí chọn đối tác trong chương trình liên kết quốc tế của nhà trường như thế nào, thứ hạng ra sao? Tuyển sinh đầu vào của nhà trường có đúng như yêu cầu của đối tác đưa ra không thưa ông?
Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương PGS.TS Đào Ngọc Tiến chia sẻ tại tọa đàm

Tiêu chí chúng tôi lựa chọn đầu tiên và cũng là tiêu chí quan trọng nhất là chất lượng. Đó phải là một cơ sở giáo dục đại học được kiểm định chất lượng tốt và tương xứng, phù hợp với chiến lược phát triển của nhà trường. Chất lượng thể hiện qua uy tín, xếp hạng cao trên thế giới như: có kiểm định AACSB (là một chứng nhận kiểm định được các nhà tuyển dụng đánh giá rất cao khi tuyển chọn các ứng viên vào doanh nghiệp  - PV).

Tiêu chí thứ hai để lựa chọn là phải phù hợp với lĩnh vực, ngành đào tạo của trường. Trường Đại học Ngoại thương luôn xác định thế mạnh là kinh tế và kinh doanh, tập trung vào các ngành Business và Economic. Cùng với sự phát triển đa ngành, Trường Đại học Ngoại thương mở ra các ngành khác như: Quản trị khách sạn, Logistics và trong tương lai sẽ tiếp tục kết hợp giữa kinh tế và công nghệ để phù hợp với nhu cầu của xã hội hiện nay.

Tiêu chí thứ ba, Trường Đại học Ngoại thương cân nhắc và tính đến về quan hệ, cam kết của đối tác. Đây là vấn đề rất khó để đánh giá nhưng chúng tôi rất coi trọng. Bởi vì chương trình liên kết đào tạo với quốc tế là một sản phẩm chung. Hai bên phải cùng nhau chăm lo, chăm chút đứa con chung thì mới có chất lượng, mới phát triển được. Chúng tôi luôn xem xét đối tác từ những lãnh đạo cao cấp nhất của trường cho đến những người trực tiếp làm và cả sự ủng hộ của các cơ quan đại diện ngoại giao của nước ngoài tại Việt có thể hiện sự quan tâm và cao hơn nữa là sự cam kết để cùng đồng hành, phát triển chương trình đó hay không. Nếu như có được sự chia sẻ của cả hai bên thì chương trình mới phát triển được.

Tiêu chí thứ tư, chúng tôi lựa chọn xem chương trình đào tạo đó đem lại giá trị gia tăng gì cho Trường Đại học Ngoại thương? Chúng tôi đã xây dựng bộ tiêu chí để đánh giá các giá trị gia tăng của chương trình này đem lại những gì, từ uy tín, thương hiệu cho đến những vấn đề liên quan đến chuyển giao về công nghệ, giáo dục, hỗ trợ, thúc đẩy cho việc trao đổi giữa giảng viên và sinh viên cũng như các  điều kiện đảm bảo chất lượng về học liệu.

Tiêu chí thứ năm, phải đảm bảo sự đa dạng về khu vực, về các quốc gia. Bởi vì, chương trình liên kết đào tạo sẽ phải gắn với nhu cầu của thị trường. Chúng tôi mong muốn đưa ra cho thị trường, cho người học một sự lựa chọn đa dạng nhất trong mỗi lĩnh vực, với mỗi châu lục, mỗi quốc gia; lựa chọn những trường tốt nhất ở mỗi một lĩnh vực, để từ đó phát triển được chương trình tốt nhất của Trường Đại học Ngoại thương cùng với đối tác.

Thưa TS. Trần Đức Quỳnh, Trường Quốc tế - ĐH Quốc gia Hà Nội rất đa dạng trong các chương trình liên kết đào tạo với nhiều nước, trường đã triển khai các chương trình đào tạo liên kết trong thời gian qua như thế nào? Đội ngũ giảng viên tham gia giảng dạy trong chương trình phải đáp ứng những tiêu chí gì? Số lượng giảng viên người nước ngoài chiếm bao nhiêu phần trăm, người Việt Nam bao nhiêu phần trăm?

TS. Trần Đức Quỳnh, Trưởng phòng đào tạo Trường Quốc tế - ĐH Quốc gia Hà Nội:

Một trong những sứ mệnh của Trường Quốc tế, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội là liên kết đào tạo quốc tế và thông qua liên kết đào tạo quốc tế để thúc đẩy và nâng cao chất lượng đào tạo của các chương trình mà trường tổ chức.

Thưa TS. Trần Đức Quỳnh, trường Quốc tế - ĐH Quốc gia Hà Nội rất đa dạng trong các chương trình liên kết đào tạo với nhiều nước, trường đã triển khai các chương trình đào tạo liên kết trong thời gian qua như thế nào? Đội ngũ giảng viên tham gia giảng dạy trong chương trình phải đáp ứng những tiêu chí gì? Số lượng giảng viên người nước ngoài chiếm bao nhiêu phần trăm, người Việt Nam bao nhiêu phần trăm?
Trưởng phòng đào tạo Trường Quốc tế - Đại học Quốc gia Hà Nội TS. Trần Đức Quỳnh chia sẻ tại tọa đàm

Trường Quốc tế có 15 ngành đào tạo, các chương trình đào tạo trải dài cả lĩnh vực tự nhiên, công nghệ, kỹ thuật, kinh tế chứ không chỉ tập trung vào một lĩnh vực chuyên biệt. Đặc trưng của Trường Quốc tế là tính liên kết đào tạo quốc tế, liên kết quốc tế. Trường đang triển khai 7 chương trình đào tạo cả bậc đại học và bậc sau đại học là thạc sĩ và tiến sĩ. Chúng tôi luôn mong muốn tìm đối tác thực sự lớn và uy tín để đào tạo tiến sĩ trong lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ, nhưng đây mới chỉ là định hướng tương lai.

Theo chương trình đào tạo bậc đại học, Trường Quốc tế triển khai nhiều mô hình, trong đó có mô hình đối tác cấp bằng, trường tổ chức triển khai đào tạo và đối tác cấp bằng; hoặc chương trình song bằng tốt nghiệp, sinh viên nhận được cả bằng của trường đối tác và bằng của Đại học Quốc gia Hà Nội. Trường cũng có chương trình liên kết quốc tế nhưng bằng cấp tại Đại học Quốc gia Hà Nội. Thời gian tới, trường còn có rất nhiều dự kiến để phát triển những mô hình đào tạo khác.

Hiện nay, trường có đối tác tập trung ở các nước Anh, Pháp, Mỹ và Nga. Đội ngũ tham gia giảng dạy là các giảng viên của trường và giảng viên nước ngoài của đối tác, cơ bản đều có trình độ tiến sĩ. Đây là yêu cầu về giảng viên của trường chúng tôi.

Về tỷ lệ phần trăm giảng viên Việt Nam và giảng viên nước ngoài tham gia vào các chương trình đào tạo thì hiện nay không có quy định cụ thể. Với mỗi đối tác lại có những yêu cầu khác nhau. Do đó, tùy chương trình mà có tỷ lệ giảng viên nước ngoài khác nhau. Có chương trình cao nhất là 50% giảng viên nước ngoài và 50% giảng viên Việt Nam.

Cũng có những chương trình đối tác yêu cầu giảng viên Việt Nam giảng dạy nhưng phần kiểm tra, đánh giá, về phương pháp kiểm tra, đánh giá hoặc tất cả các yêu cầu môn học thì phải trao đổi và thống nhất. Tựu chung, trong quá trình tổ chức triển khai luôn có sự trao đổi và chia sẻ giữa giảng viên trong nước với giảng viên ở các trường đối tác để trao đổi kinh nghiệm, phương pháp giảng dạy, nội dung của môn học. Đó là một trong nhiều lợi thế của giảng viên Việt Nam khi được tham gia giảng dạy các chương trình liên kết quốc tế.

Ngoài ra, trường cũng đẩy mạnh đào tạo gắn với doanh nghiệp, đưa các sinh viên đi học tập tại doanh nghiệp. Chúng tôi luôn quan tâm và mời những người làm hoạt động thực tiễn doanh nghiệp, của các công ty, tổ chức nước ngoài để trao đổi, chia sẻ đối với chương trình liên kết quốc tế.

Kết quả và bài học kinh nghiệm

Một trong những hạn chế của Chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài hiện nay của chương trình đại học là chất lượng tuyển sinh đầu vào như năng lực ngoại ngữ, kết quả học bạ và điểm thi THPT tương đối thấp mà nhiều trường đại học đã tuyển… liệu như vậy có ảnh hưởng đến chất lượng của chương trình đào tạo không? Bộ Giáo dục và Đào tạo có biện pháp gì để đảm bảo chất lượng đào tạo đối với các chương trình liên kết không thưa bà Nguyễn Thu Thuỷ?

PGS.TS Nguyễn Thu Thuỷ, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo

Theo xu hướng trên thế giới, các trường đào tạo có tiếng thường chú trọng thắt chặt đầu ra, hướng đi này nhằm bảo đảm cơ hội học tập cho người học. Còn ở Việt Nam, theo quy định hiện hành tại Nghị định số 86/2018/NĐ-CP của Chính phủ, trường hợp cấp văn bằng của cơ sở giáo dục đại học nước ngoài và trường hợp đồng thời cấp văn bằng của cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và văn bằng của cơ sở giáo dục đại học nước ngoài, đối tượng tuyển sinh ít nhất phải có trình độ Bậc 4 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương (ít nhất IELTS 5.5). Năng lực ngoại ngữ như vậy mới có thể học tập hoàn toàn bằng tiếng Anh không qua phiên dịch. Với các điều kiện đầu vào này, tôi cho rằng, sinh viên Việt Nam khi cầm được các tấm bằng do các nhà trường liên kết đào tạo cấp là xứng đáng với năng lực của các em. 

- Một trong những hạn chế của chương trình Liên kết đào tạo với nước ngoài hiện nay của chương trình đại học là chất lượng tuyển sinh đầu vào như năng lực ngoại ngữ, kết quả học bạ và điểm thi THPT tương đối thấp mà nhiều trường đại học đã tuyển…liệu như vậy có ảnh hưởng đến chất lượng của chương trình đào tạo không? Bộ Giáo dục và Đào tạo có biện pháp gì để đảm bảo chất lượng đào tạo đối với các chương trình liên kết không thưa bà Nguyễn Thu Thuỷ?

Liên quan đến việc bảo đảm chất lượng của các chương trình liên kết đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo căn cứ vào kết quả kiểm tra hậu kiểm, chương trình liên kết đào tạo nước ngoài nào không đúng cam kết, hoặc không bảo đảm theo Nghị định số 86/2018/NĐ-CP của Chính phủ thì Bộ sẽ yêu cầu dừng đào tạo. Trong trường hợp đó, dĩ nhiên, người học không có lỗi, lỗi là ở các nhà trường, vì vậy, các em được tạo điều kiện để chuyển sang học các chương trình tương tự khác. 

Thưa TS Trần Đức Quỳnh, các chương trình đào tạo liên kết quốc tế có điểm gì độc đáo hơn các chương trình đào tạo truyền thống? Sản phẩm của nhà trường đã được thị trường lao động đánh giá ra sao, thưa ông?

TS Trần Đức Quỳnh, Trưởng phòng đào tạo Trường Quốc tế - ĐH Quốc gia Hà Nội

Đây là câu hỏi rất hay. Thực ra khi thí sinh và phụ huynh lựa chọn một chương trình thì họ luôn tìm điểm độc đáo. Chương trình không có lợi thế cạnh tranh, chắc họ sẽ không chọn.

Với các chương trình liên kết quốc tế thì điểm khác biệt này hơi mờ hơn một chút. Bởi đặc trưng của Trường Quốc tế là các chương trình tại trường, kể cả Đại học quốc gia Hà Nội cấp bằng đều được đào tạo bằng tiếng Anh và cơ bản là được tham khảo một chương trình mà như quy định của Đại học Quốc gia là phải tham khảo chương trình mà ngành, trường đó phải nằm trong tốp 300, nếu không thì ít nhất cũng phải trong tốp 500. Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt. So với các chương trình truyền thống hay so với các chương trình chung của các trường khác, khung chương trình đào tạo của một trường đại học ở nước ngoài và đã được kiểm định thường rất uy tín. Đó là về mặt khung chương trình.

Thưa TS Trần Đức Quỳnh, các chương trình đào tạo liên kết quốc tế có điểm gì độc đáo hơn các chương trình đào tạo truyền thống? Sản phẩm của nhà trường đã được thị trường lao động đánh giá ra sao, thưa ông?

Về nội dung chương trình thì chúng ta tiếp thu từ chương trình của đối tác nước ngoài. Về mặt đội ngũ, chương trình truyền thống sẽ có những trường hoàn toàn là giảng viên Việt Nam giảng dạy. Nhưng đối với chương trình liên kết quốc tế thì sẽ có giảng viên nước ngoài và tỉ lệ giảng viên nước ngoài cao hơn so với các chương trình khác.

Ngay như trong Trường Quốc tế, với các chương trình do Đại học Quốc gia Hà Nội cấp bằng, chúng tôi cũng đang phấn đấu khoảng 10%-20% là giảng viên nước ngoài giảng dạy. Hiện naym tỷ lệ này đang tăng lên. Dĩ nhiên, đối với các chương trình liên kết quốc tế, do quy định bắt buộc của chương trình và trong tổ chức triển khai chương trình với đối tác nên tỷ lệ giảng viên nước ngoài tham gia vào sẽ cao hơn.

Tôi cho rằng, cũng nên tránh quan điểm giảng viên nước ngoài là tốt hơn hẳn giảng viên Việt Nam. Chúng ta không nên tuyệt đối hóa khi suy luận như vậy. Khi các bạn được học giảng viên của các trường đối tác uy tín thì chất lượng được bảo đảm, nhưng quan trọng hơn là người học được tiếp xúc với nhiều môi trường, thầy cô và các điều kiện, kể cả về văn hóa giảng dạy, phong cách làm việc khác nhau, từ đó hình thành cho người học những phẩm chất và kỹ năng tốt hơn. Đây mới là điểm cần chú ý và là lợi thế của việc tiếp xúc với các thầy cô là giảng viên của các trường đối tác nước ngoài.

Đối với chương trình liên kết quốc tế của Trường Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội thì các bạn sinh viên đều có cơ hội đi học chuyển tiếp tại trường đối tác. Các bạn đang học giữa chừng đều có thể chuyển tiếp sang trường đối tác để học hoặc là sang trường đối tác học một kỳ, sau đó lại quay về học tiếp mà vẫn được công nhận tín chỉ bình thường. Bởi chương trình là chương trình của đối tác và trong chương trình chuyển tiếp có thể các bạn không phải chuyển tiếp sang đúng trường đang đối tác mà chuyển tiếp cả sang các trường khác. Hiện, có khoảng hơn 40 trường đại học trên thế giới công nhận sự chuyển tiếp này và các chương trình liên kết quốc tế lẫn chương trình của Đại học Quốc gia Hà Nội cấp bằng. Vì thế, các bạn có điều kiện để tiếp xúc với môi trường rộng mở hơn và qua đó tiếp xúc được nhiều văn hóa làm việc, phong cách làm việc sẽ trưởng thành hơn rất nhiều.

Trong chương trình của đối tác thiết kế, có những có những học phần rất hay mà khi xây dựng các chương trình khác chúng ta cũng chưa có điều kiện để cập nhật thì trường đối tác họ đã có để giúp sinh viên tiếp thu. Ví dụ như trong chương trình quản lý mà chúng tôi kết hợp với một trường đại học của Mỹ có học phần học tập, trải nghiệm rất thú vị. Ở đó, các bạn sinh viên phải thiết kế làm việc theo nhóm, thiết kế các phương án để có một dự án nhằm kiếm tiền và tiêu tiền. Sau khi phát triển và kiếm được tiền rồi lại phải tiêu tiền đó như thế nào. Định hướng thường là tiêu vào để phục vụ tổ chức các hoạt động thiện nguyện, rồi các tổ chức khác, tức là ngoài việc rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp thì rèn luyện cả thái độ, đạo đức, lối sống trách nhiệm với cộng đồng, xã hội.

Quay lại câu chuyện về chất lượng và băn khoăn về chất lượng đầu vào, chất lượng đầu ra, tôi cho rằng, đầu vào của chương trình liên kết quốc tế, kể cả ngay tại Trường Quốc tế trong những năm vừa rồi đã có sự tiến triển hơn những năm trước, tức là chất lượng đầu vào tốt hơn. Đây là một điểm đáng mừng.

Nhưng quan trọng là chất lượng đầu ra. Đối với sinh viên của Trường Quốc tế nói chung và đặc biệt đối với sinh viên chương trình liên kết quốc tế, chúng tôi đã có những khảo sát. Theo đó, các bạn cơ bản được đánh giá là nổi trội ở nhiều điểm.

Thưa TS Trần Đức Quỳnh, các chương trình đào tạo liên kết quốc tế có điểm gì độc đáo hơn các chương trình đào tạo truyền thống? Sản phẩm của nhà trường đã được thị trường lao động đánh giá ra sao, thưa ông?

Điểm thứ nhất là các bạn năng động hơn. Thứ hai là tư duy phản biện của bạn tốt hơn. Điểm thứ ba rất quan trọng là những kỹ năng mềm và khả năng sử dụng tiếng Anh thì rõ ràng các bạn sinh viên theo học chương trình liên kết quốc tế tốt hơn những chương trình khác. Tỷ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp theo khảo sát của chúng tôi là khoảng trên 90%. Đặc biệt, có rất nhiều em trong quá trình học tập đã đi làm. Tôi nghĩ rằng, chất lượng không chỉ ở tỷ lệ sinh viên sau khi tốt nghiệp đi làm mà còn ở việc khẳng định vị trí ở những công ty rất lớn trong lĩnh vực tài chính, kế toán, kiểm toán.

Những tín hiệu đó cho thấy, chất lượng của các chương trình liên kết rất tốt và các bạn sinh viên cũng thể hiện rất xuất sắc.

Đối với sinh viên của Trường Quốc tế thì có rất nhiều chương trình. Chẳng hạn như các chương trình liên kết với Mỹ, sinh viên chuyển tiếp học kỳ sau khi học xong có thể ở lại Mỹ, xin việc luôn hoặc quay về Việt Nam làm việc. Tôi nghĩ rằng, điều đó cũng khẳng định chất lượng đào tạo của các chương trình liên kết quốc tế. Chúng ta cũng có thể tin tưởng và yên tâm đối với những thông tin ở Trường Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Thưa PGS.TS Hồ Thúy Ngọc, Trưởng khoa Đào tạo quốc tế, Trường ĐH Ngoại thương, thông tin về chất lượng, về học phí các chương trình quốc tế, chương trình liên kết đào tạo tại Việt Nam đang được quan tâm. Theo bà, yếu tố nào mà thí sinh và phụ huynh cần chú trọng để đánh giá một chương trình quốc tế là chất lượng? 

PGS.TS Hồ Thúy Ngọc, Trưởng khoa Đào tạo quốc tế, Trường ĐH Ngoại thương:

Thuật ngữ “chất lượng” được sử dụng đi sử dụng lại trong chương trình và cũng là mối quan tâm rất lớn của các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo và cũng là mối quan tâm của tất cả các trường. Nếu nói rằng đã có một bộ tiêu chí chính thức và đầy đủ để đánh giá chất lượng của chương trình liên kết đào tạo với người nước ngoài hiện nay ở Việt Nam hiện nay chưa, theo chúng tôi được biết là chưa. Có rất nhiều cách để đánh giá một chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài có chất lượng hay không và còn tùy thuộc vào góc nhìn.

Nếu xem giáo dục là một lĩnh vực dịch vụ đúng theo phân ngành của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) mà Việt Nam là thành viên thì một sản phẩm có chất lượng là sản phẩm được cung cấp bởi nhà cung cấp có uy tín, một chương trình đào tạo có chất lượng nếu được cung cấp bởi các trường, các cơ ở đại học có uy tín. Sự uy tín được tính bằng sự xếp hạng hoặc được công nhận bởi các cơ quan quản lý giáo dục của nước sở tại. Tất nhiên, thứ hạng càng cao thì sự an toàn về chất lượng càng cao. Các trường sẽ bảo đảm tuân thủ các quy trình chặt chẽ trong việc kiểm soát chất lượng để không bị đánh mất thứ hạng của mình đang có trên thế giới.

<p><em>Thưa <strong>PGS.TS Hồ Thúy Ngọc, Trưởng khoa Đào tạo quốc tế, Trường ĐH Ngoại thương</strong>, thông tin về chất lượng, về học phí các chương trình quốc tế, chương trình liên kết đào tạo tại Việt Nam đang được quan tâm. Theo bà, yếu tố nào mà thí sinh và phụ huynh cần chú trọng để đánh giá một chương trình quốc tế là chất lượng? </em></p> -0
Trưởng khoa Đào tạo quốc tế, Trường ĐH Ngoại thương PGS.TS Hồ Thúy Ngọc chia sẻ tại tọa đàm

Một chương trình đào tạo có chất lượng sẽ nằm ở chính sản phẩm, tức là ngành học của cơ sở đào tạo đó được công nhận bởi một tổ chức nghề nghiệp độc lập hay được công nhận về chất lượng của một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của nước sở tại. Một trường đại học hay một cở sở giáo dục đại học có uy tín, không có nghĩa là tất cả các ngành học mà họ đào tạo đều có chất lượng như nhau. Vì vậy, cả hai yếu tố cơ sở giáo dục cũng như ngành học là hai điều kiện mà Nghị định số 86/NĐ-CP yêu cầu về việc đảm bảo chất lượng. Khi trường Đại học Ngoại thương chọn chương trình, chọn đối tác cũng căn cứ hai tiêu chí này.

Chủ thể truyền tải sản phẩm đến cho người học - giảng viên phải có chất lượng, phải đảm bảo các yêu cầu tối thiểu của trường cấp bằng. Việc đánh giá người học cần phải có sự kiểm soát từ hai phía.

Nếu nhìn từ góc nhìn của xã hội, nhìn vào sản phẩm của chương trình đào tạo là người học thì một chương trình chất lượng sẽ được đánh giá khác hơn. Người học phải có các kỹ năng để có thể trở thành người lao động toàn cầu chứ không chỉ dừng ở việc trở thành người lao động của thị trường Việt Nam. Ngoài ngôn ngữ, phải có kiến thức chuyên môn sâu và thực tế để ứng dụng vào thị trường lao động, không phải đào tại lại. Phải có kiến thức xã hội, các kỹ năng chung, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình trước đám đông, kỹ năng phối kết hợp để có thể gia nhập vào thị trường lao động cũng hoàn toàn có thể làm việc với các cộng sự của mình một cách nhịp nhàng.

Nếu từ góc độ của phụ huynh và học sinh, nên lựa chọn chương trình phù hợp với năng lực học tập của người học, phù hợp với năng lực tài chính của gia đình, sở thích, nguyện vọng cũng như định hướng của người học cho công việc trong tương lai.

Viện Đào tạo Quốc tế là đơn vị đầu mối trực tiếp triển khai các chương trình liên kết quốc tế của Trường ĐH Kinh tế Quốc dân. Thưa PGS.TS Nguyễn Thành Hiếu, ông có thể chia sẻ thêm về thuận lợi, khó khăn khi triển khai đặc biệt là xây dựng môi trường đào tạo quốc tế trong một trường đại học Việt Nam?

PGS.TS Nguyễn Thành Hiếu, Viện trưởng Viện Đào tạo Quốc tế, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân:

Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo trao cho các trường quyền tự chủ rất lớn, đem lại thuận lợi cho trường trong việc linh hoạt cũng như xây dựng các chương trình liên kết đào tạo, làm cho các chương trình đào tạo sát với thực tế hơn, đáp ứng nhu cầu của người học nhiều hơn. Vì thế, số lượng người học đăng ký vào các trường liên kết nhiều hơn. 

Viện Đào tạo Quốc tế là đơn vị đầu mối trực tiếp triển khai các chương trình liên kết quốc tế của Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, thưa PGS.TS Nguyễn Thành Hiếu, ông có thể chia sẻ thêm về thuận lợi, khó khăn khi triển khai đặc biệt là xây dựng môi trường đào tạo quốc tế trong một trường đại học Việt Nam?
Viện trưởng Viện Đào tạo Quốc tế, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân PGS.TS Nguyễn Thành Hiếu chia sẻ tại tọa đàm

Thứ hai là sự thay đổi nhận thức của người học với chất lượng của các chương trình liên kết đào tạo. Nhiều thí sinh xem đây là lựa chọn số một khi đăng ký học. Tỷ lệ thi trúng tuyển vào đợt sau luôn cao hơn đợt trước. Đó là minh chứng rõ ràng rằng, xã hội thừa nhận chất lượng của các chương trình liên kết đào tạo và xem như một lựa chọn quan trọng trong việc học. 

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân có thuận lợi là một trong những trường trọng điểm hình thành rất lâu, thương hiệu này giúp quá trình đàm phán với các đối tác, thậm chí giúp chúng tôi được quyền lựa chọn những đối tác tốt. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc duy trì chất lượng các chương trình đào tạo. Đây cũng là yếu tố quan trọng trong việc thu hút các thí sinh có chất lượng đến học.

Lãnh đạo trường xác định liên kết đào tạo nước ngoài là một trong những mũi nhọn, chiến lược phát triển lâu dài, bền vững của trường. Vì vậy, mọi chính sách, quyết sách, hỗ trợ của trường tập trung rất lớn cho việc phát triển chương trình liên kết đào tạo. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân có cơ sở vật chất khá hiện đại, đây cũng là yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy các chương trình liên kết quốc tế. 

Đặc biệt, trường có đội ngũ giảng viên rất tốt, chất lượng cao. Hầu hết được đào tạo từ nước ngoài, từ các nước có nền giáo dục tiên tiến. Tiêu chí để tham gia giảng dạy các chương trình này không đơn giản, phải được đào tạo từ nước ngoài, có trình độ tiến sĩ trở lên mới thích ứng được các yêu cầu của đối tác.

Viện Đào tạo Quốc tế là đơn vị đầu mối trực tiếp triển khai các chương trình liên kết quốc tế của Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, thưa PGS.TS Nguyễn Thành Hiếu, ông có thể chia sẻ thêm về thuận lợi, khó khăn khi triển khai đặc biệt là xây dựng môi trường đào tạo quốc tế trong một trường đại học Việt Nam?

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, trường cũng gặp những khó khăn do đòi hỏi chất lượng chương trình liên kết đặt ra yêu cầu rất cao nên cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên, học viên... đáp ứng được yêu cầu là rất khó. Tất nhiên, áp lực này cũng tạo cơ hội cho đội ngũ giảng viên phải phấn đấu, sinh viên cũng phải nỗ lực rất lớn. Nhưng sinh viên tốt nghiệp sẽ là lực lượng chất lượng cao cung cấp cho xã hội. 

Thực tế, Viện Đào tạo quốc tế của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đang gặp khó khăn trong việc thu hút được các giảng viên có chất lượng cao, cũng như thu hút  sinh viên quốc tế đến từ các nước phát triển. Chúng tôi đang cố gắng có thêm nhiều sinh viên Mỹ, Pháp, Anh, Đức đến học.

Định hướng phát triển chương trình liên kết đào tạo

Thưa TS Trần Đức Quỳnh,ông có thể đưa ra nhận định, đánh giá về xu thế đào tạo liên kết quốc tế trong thời gian tới tại Việt Nam, sau thời hậu Covid-19?

TS Trần Đức Quỳnh, Trưởng phòng đào tạo Trường Quốc tế - ĐH Quốc gia Hà Nội:

Thực ra đây là một câu hỏi khó, bởi vì tương đối vĩ mô. Nhưng theo tôi, xu hướng liên kết quốc tế và đánh giá đúng về các chương trình liên kết quốc tế sẽ ngày càng được hiểu đúng hơn và thu hút được nhiều người học hơn.

Hiện nay, trong bối cảnh quốc tế hóa và hội nhập một cách sâu rộng thì không có lý do gì trong lĩnh vực giáo dục chúng ta không hội nhập. Các trường đại học lớn trên thế giới rất quan tâm đến thị trường giáo dục ở Việt Nam. Trong khi đó, nhu cầu học tập của các em là rất lớn và mỗi sinh viên, phụ huynh đều mong muốn có được những môi trường giáo dục chất lượng cao. Rõ ràng, nếu chất lượng tương đương học tập ở Việt Nam và chi phí tương xứng với chi phí đi nước ngoài học tập thì đây sẽ trở thành một xu thế.

<p><strong>Định hướng phát triển chương trình liên kết đào tạo</strong></p><p><em><strong>Thưa TS Trần Đức Quỳnh,</strong></em><em>ông có thể đưa ra nhận định, đánh giá về xu thế đào tạo liên kết quốc tế trong thời gian tới tại Việt Nam, sau thời hậu Covid-19?</em></p> -0

Sau dịch Covid-19, chúng ta nhận thấy, mọi mặt đời sống xã hội, trong đó có giáo dục có một bước chuyển biến rất quan trọng, đó là việc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số. Trước đây, dạy và học online là điều gì đó rất hạn chế, nhưng hiện nay việc này đã trở nên phổ biến. Đặc biệt trong dịch Covid-19, nếu không có chuyển đổi số và không có hạ tầng công nghệ thông tin thì công việc của chúng ta sẽ bị đình trệ. 

Vì vậy, theo tôi việc đào tạo liên kết quốc tế sẽ mở ra một xu thế nữa là liên kết đào tạo, nhưng không chỉ là đào tạo trực tiếp mà có thể còn cả đào tạo trực tuyến. Điều này Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Thông tư số 38/2021/TT-BGDĐT hướng dẫn về việc dạy học online. Tức là xu hướng liên kết đào tạo nhưng là trực tuyến hoặc kết hợp giữa trực tuyến và trực tiếp sẽ trở thành xu hướng mới.

Ngoài ra, ví dụ đối với Trường Quốc tế, tôi mong muốn không phải chỉ các chương trình liên kết quốc tế mà chúng ta cũng có thể lấy chương trình của nước ngoài mang về giảng dạy và người học được cấp bằng của trường nước ngoài. Đó là điểm rất là tốt để chúng ta học tập.

Hiện nay, một phần tiền của chúng ta đang chảy sang nước ngoài trên chính thị trường giáo dục của chúng ta. Thế tại sao chúng ta không hội nhập, kết hợp và thậm chí là liên kết đào tạo? Tức là chúng ta cũng xây dựng và xuất khẩu chương trình đào tạo của Việt Nam sang những nước khác. Chúng ta có thể xây dựng các chương trình hợp tác đào tạo theo hướng 2 +2, chẳng hạn cũng là trường đối tác cấp bằng nhưng sẽ có 2 năm học ở Việt Nam và 2 năm học ở trường đối tác. Điều này giúp sinh viên tiết kiệm được 2 năm so với khi sang học ở nước ngoài 4 năm. Tất nhiên, cũng sẽ có những vấn đề vướng mắc về quy định pháp luật, cần phải tháo gỡ để xu hướng liên kết quốc tế phát triển. Tôi cho rằng, xu hướng đó rất tích cực và có thể triển khai cụ thể hóa thành các mô hình trên thực tế.

Thưa ông Đào Ngọc Tiến, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Ngoại thương, về phía cơ sở đào tạo, các trường cần làm gì để đảm bảo chất lượng vượt trội của các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài nâng cao tính lan toả từ chất lượng đào tạo các chương trình liên kết quốc tế sang các chương trình đào tạo truyền thống hiện nay?

PGS.TS Đào Ngọc Tiến, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Ngoại thương:

Mỗi chương trình đào tạo, chúng ta phải tìm ra những điểm độc đáo, điểm khác biệt. Chúng tôi hiểu rằng, có những khía cạnh, có những điểm vượt trội hay khác biệt độc đáo không chỉ là so với các chương trình của trường Ngoại thương hay một trường trong nước, mà trường đó sẽ có những điểm nào khác biệt, thậm chí vượt trội so với chính chương trình gốc của đối tác đó.

Chương trình liên kết ở đây là một sản phẩm chung có thể phát triển. Vậy chúng ta phải nhìn xem thế mạnh của mỗi bên là gì để từ đó phát huy thế mạnh của mỗi bên, tạo ra được một sản phẩm với những nét vượt trội.

Điểm thứ hai, trong tương lai Trường Đại học Ngoại thương cũng như các trường của Việt Nam sẽ phải nghĩ đến việc xuất khẩu, đưa những chương trình đào tạo của chúng ta ra nước ngoài.

<p><em>Thưa ông Đào Ngọc Tiến, Phó Hiệu trưởng trường ĐH Ngoại thương, về phía cơ sở đào tạo, thì các trường cần làm gì để đảm bảo chất lượng vượt trội của các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài nâng cao tính lan toả từ chất lượng đào tạo các chương trình liên kết quốc tế sang các chương trình đào tạo truyền thống hiện nay?</em></p> -0

Trường Đại học Ngoại thương cũng đang có những bước khởi đầu. Những chương trình liên kết đào tạo của trường ban đầu xuất phát chỉ có hai đối tác, đến nay đã được nhiều đối tác khác công nhận và muốn tham gia vào. Hợp tác liên kết đào tạo sẽ không chỉ là câu chuyện hợp tác song phương mà còn là đa phương, nhiều bên cùng tham gia để có thể đáp ứng được nhu cầu của toàn cầu.

Ở Trường Đại học Ngoại thương có một chương trình hợp tác, liên minh của các trường đại học hàng đầu châu Á cùng nhau xây dựng những chương trình về trí tuệ nhân tạo, kinh doanh số, về các hoạt động để đáp ứng nhu cầu của thế giới. Qua đó, các sinh viên có thể linh hoạt lựa chọn môn học trong mỗi học kỳ ở mỗi đối tác khác nhau.

Chúng ta cần phải nghĩ xa hơn, có một chiến lược để tìm ra những khía cạnh, những điểm vượt trội nhằm nâng cao chất lượng của các chương trình liên kết đào tạo quốc tế.

Về tính lan tỏa của chương trình liên kết đào tạo quốc tế, trước hết, chúng ta cần tạo ra được môi trường để tất cả các yếu tố chất lượng, các điều kiện thực hiện chương trình được đảm bảo. Không nên nghĩ lan tỏa chỉ là tiếp nhận công nghệ giáo dục từ quốc tế chuyển sang Việt Nam.

Ví dụ như giáo viên, có cả giáo viên nước ngoài và giáo viên Việt Nam. Trong các chương trình của chúng tôi cũng có những giáo viên của Trường Đại học Ngoại thương sang dạy cho đối tác tại chính nước đối tác đó, mà không phải chỉ lấy giáo sư của nước ngoài về Việt Nam để dạy.

Đây là một sự trao đổi giảng viên và chúng tôi làm việc này một cách thường xuyên. Khi giáo viên các bộ môn có sự tương tác, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và cùng nhau để thực hiện thì sinh viên cũng sẽ như vậy. Chúng ta cũng thu hút rất nhiều sinh viên từ nước ngoài của các đối tác sang Việt Nam học.

Tôi nghĩ rằng, đây là cơ hội và cũng sẽ là một xu hướng khi kinh tế của Việt Nam ngày càng phát triển. Chúng ta đang có rất nhiều những lực lượng lao động của nước ngoài. 

Về vấn đề lan tỏa liên quan đến các yếu tố về học liệu, tài liệu, chúng ta cùng nhau xây dựng, đóng góp và những thư viện sẽ được chia sẻ không chỉ cho liên kết đào tạo quốc tế mà còn chia sẻ cho cả các chương trình khác. Chúng ta phải tạo ra một sự tương tác, một sự sử dụng chung, các điều kiện đảm bảo chất lượng ở trong chương trình.

Để sự lan tỏa rộng hơn, có lẽ chúng ta phải nghĩ đến câu chuyện lan tỏa từ liên kết đào tạo, từ hoạt động đào tạo quốc tế sang các hoạt động khác của nhà trường. Ví dụ như hoạt động về nghiên cứu, tư vấn,… từ đó dần tăng cường hợp tác, từ là đối tác toàn diện đến đối tác chiến lược, tạo cơ sở lan tỏa từ đào tạo sang các lĩnh vực khác.

Với bề dày đào tạo đào tạo liên kết chương trình quốc tế, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân làm thế nào để thu hút được sinh viên giỏi vào học chương trình này? Và làm thế nào để có một môi trường đào tạo quốc tế tại Việt Nam thay dần thói quen dạy và học theo cách truyền thống ở môi trường bậc đại học hiện nay, để hội nhập dần với quốc tế, thưa GS.TS Trần Vân Hoa, Phó Hiệu trưởng trường ĐH Kinh tế Quốc dân?

GS.TS Trần Thị Vân Hoa, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế Quốc dân:

Không chỉ môi trường chuẩn quốc tế mới có chương trình đào tạo chuẩn quốc tế. Chúng tôi mong muốn và đang xây dựng một môi trường chuẩn quốc tế cho tất cả các sinh viên của nhà trường chứ không chỉ riêng sinh viên của các chương trình đào tạo quốc tế. Khi các chương trình đào tạo quốc tế được lan toả, sẽ tiếp thu được các công nghệ và hiểu được các đơn vị giáo dục quốc tế họ đưa ra các tiêu chí, chuẩn mực như thế nào để giữ sức hút cho các chương trình học tập.

Với bề dày đào tạo đào tạo liên kết chương trình quốc tế, trường ĐH Kinh tế quốc dân làm thế nào để thu hút được sinh viên giỏi vào học chương trình này? Và làm thế nào để có một môi trường đào tạo quốc tế tại Việt Nam thay dần thói quen dạy và học theo cách dạy và học  truyền thống hiện nay ở môi trường bậc đại học hiện nay để hội nhập dần với quốc tế thưa GS.TS Trần Vân Hoa, Phó Hiệu trưởng trường ĐH Kinh tế Quốc dân?

Trường ĐH Kinh tế Quốc dân phát triển môi trường, chương trình học tập bằng tiếng Anh đạt chuẩn quốc tế và đưa ra các quy định đối với các chương trình chính quy cũng đạt chuẩn như chương trình quốc tế. Nguyên tắc quan trọng của trường trong lựa chọn đối tác là chỉ lựa chọn các chương trình có độ hot cao trong tương lai chứ không phải hiện tại. Cách đây 2 năm, nhà trường đã có chương trình liên kết quốc tế với Đại học Waikato, New Zealand về kinh doanh số và trường cũng có một chương trình đào tạo về kinh doanh số. Việc trao đổi giữa các chương trình do Việt Nam cấp bằng và quốc tế cấp bằng sẽ gần hơn, các chương trình đào tạo của Việt Nam cũng được quốc tế công nhận.

Quan trọng hơn, các trường đại học của Việt Nam sẽ thu hút được sinh viên nước ngoài đến học tập, tính quốc tế hóa trong môi trường học tập sẽ được nâng lên. Bên cạnh đó, các chương trình học tập do Việt Nam cấp bằng cũng thu hút được các chuyên gia quốc tế đến giảng dạy, làm tăng tính quốc tế hóa, thay đổi các thói quen học tập truyền thống bằng các thói quen học tập mới, yếu tố đào tạo của môi trường hiện đại cũng được nâng lên. Đó chính là lý do Trường ĐH Kinh tế quốc dân đã được thừa nhận bởi nhiều tổ chức quốc tế, đặc biệt khi tham gia bảng xếp hạng về tác động lan tỏa của các chương trình giáo dục đại học thì trường có thứ hạng rất cao và rất uy tín.

Tuy nhiên, trường cũng gặp những khó khăn nhất định như về học phí. Trường tự chủ và có chương trình đào tạo tiếng Anh có học phí cao hơn các chương trình đào tạo quốc tế tại Việt Nam, không nhiều sinh viên ở Việt Nam có thể chịu được mức học phí như vậy. Những chương trình này có yêu cầu rất cao về mặt ngôn ngữ, kỹ năng cũng như các kiến thức về kinh tế, xã hội và điểm đầu vào cũng rất cao.

Bên cạnh đó, trường cũng liên kết với các tổ chức nghề nghiệp để phát triển các chương trình tích hợp chứng chỉ nghề nghiệp. Bằng cách đó, chúng tôi đã nâng cao chất lượng đào tạo cũng như đầu ra của sinh viên và uy tín của nhà trường.

Thưa bà Nguyễn Thu Thuỷ, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạoBộ Giáo dục và Đào tạo có định hướng, giải pháp gì trong thời gian tới để đảm bảo chất lượng chương trình liên kết đào tạo như chọn đối tác, môi trường pháp lý ổn định, đảm bảo quyền lợi cho người học?

PGS.TS Nguyễn Thu Thuỷ, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo:

Trước hết, nói về khuôn khổ pháp lý, các văn bản pháp lý để các trường thực hiện thì hiện nay, chúng ta đang có Nghị định số 86/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định những tiêu chí để các trường thực hiện, từ việc lựa chọn đối tác cũng như các tiêu chí đối với trường từ phía Việt Nam. Nếu có bổ sung thêm thì như tôi đã nói, định hướng của Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ là làm sao cụ thể hóa hơn Nghị định để các trường có chương trình liên kết đào tạo nước ngoài thực hiện.

Quy chế về tuyển sinh và đào tạo trong lĩnh vực đào tạo quốc tế cần cụ thể hóa hơn những yêu cầu về đầu vào, về giáo viên phía Việt Nam. Hiện nay, đối với những chương trình đào tạo trong nước, chúng ta đã có những thông tư về mở ngành đào tạo, những quy định về tuyển sinh và đào tạo rất tốt, là khuôn khổ, tiêu chuẩn tối thiểu và trao nhiều quyền tự chủ cho các trường đại học. Tôi cho rằng việc xây dựng quy chế về tuyển sinh và đào tạo trong lĩnh vực đào tạo quốc tế sẽ là xu thế ổn định, tạo môi trường mở để các trường phát triển, tạo điều kiện cho người học lựa chọn được những chương trình tốt.

Thưa bà Nguyễn Thu Thuỷ, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục- Đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo có định hướng, giải pháp gì trong thời gian tới để đảm bảo chất lượng chương trình liên kết đào tạo như chọn đối tác, môi trường pháp lý ổn định, đảm bảo quyền lợi cho người học?

Liên quan đến định hướng chọn những chương trình tốt, theo tôi là khuyến khích các nhà trường có chương trình đào tạo quốc tế tham gia kiểm định bởi các tổ chức giáo dục quốc tế. Điều này rất quan trọng vì sẽ giúp các nhà trường tăng uy tín. Việc kiểm định cũng giúp các nhà trường rà soát toàn bộ quá trình đào tạo, đồng thời cũng đánh giá kết quả đầu ra của sinh viên tốt nghiệp như thế nào. Kết quả kiểm định cũng mang lại những thông tin thiết thực cho người học và khẳng định chất lượng của chúng ta trên trường quốc tế. Từ câu chuyện này, chúng tôi  mong Việt Nam sẽ là một điểm đến của sinh viên quốc tế, sinh viên khu vực. Mục tiêu đó cũng là một trong những động lực để giáo dục Việt Nam phát triển hơn, là yếu tố mới kích thích và khuyến khích sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học hiện nay.  

Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng mong nhận được sự đồng hành, giám sát của các bên liên quan. Các cơ quan báo chí cũng là một kênh vô cùng quan trọng, phản ánh và đăng tải những thông tin từ người học, từ phụ huynh, từ các giảng viên, từ các đối tác, những thông tin như vậy kịp thời để các cơ quan quản lý Nhà nước có biện pháp điều chỉnh. Bộ Giáo dục và Đào tạo thực tế chỉ quản lý hơn 30 trường, còn lại là thuộc quản lý của địa phương, của các bộ ngành. Bộ mong muốn có sự phối hợp giữa các bên để hỗ trợ các trường phát triển tốt nhất. Chúng ta đòi hỏi từ phía các nhà trường, tuy nhiên, các nguồn lực đầu tư cho các trường còn rất thiếu, do đó cần có sự hỗ trợ chung tay nhiều hơn.

Về phía các nhà trường, quyền tự chủ nhiều hơn cũng đi kèm trách nhiệm giải trình nhiều hơn, không chỉ giải trình với cơ quan Nhà nước, mà chúng ta cần phải giải trình với người học, với phụ huynh học sinh, với cơ quan truyền thông. Khi làm tốt việc đó rồi thì chất lượng trở thành yếu tố minh bạch và sẽ trở thành động lực để gia tăng uy tín, thương hiệu của chính nhà trường trong liên kết đào tạo quốc tế, đồng thời, cũng lan tỏa chất lượng đó cho các chương trình đào tạo trong nước.

Thưa bà Nguyễn Thị Mai Hoa, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, sau khi nghe các ý kiến của các cơ sở đào tạo về thực trạng chương trình liên kết đào tạo tại Việt Nam hiện nay, về phía người làm chính sách, quan điểm của bà như thế nào? Làm thế nào để nâng cao chất lượng chương trình đào tạo liên kết đào tạo với nước ngoài để tránh “sính ngoại”, thu hút học sinh ở lại Việt Nam học tập ở những trường đại học tốt nhất, những trường đại học đã vào top 1000 thế giới? Quốc hội có dự kiến ngân sách đầu tư cho một số cơ sở giáo dục đại học mạnh để đạt đẳng cấp quốc tế không thưa bà?

Bà Nguyễn Thị Mai Hoa, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội:

Qua một buổi trao đổi từ góc độ nhà quản lý và đại diện cơ sở giáo dục, có thể thấy được bức tranh khá rộng lớn và cũng tương đối toàn diện về việc chúng ta đã và đang triển khai liên kết đào tạo với nước ngoài đối với giáo dục đại học như thế nào. 

Tôi thực sự ấn tượng với cách làm của các trường. Từ hướng dẫn chung của Bộ, nhưng đi vào triển khai thực hiện như thế nào để việc liên kết đào tạo chương trình có yếu tố quốc tế ra sao, rõ ràng vai trò chủ động của các trường quan trọng. Và cách làm, sự chia sẻ mô hình, cách tiếp cận của các thầy cô đã cho thấy, cơ sở đào tạo nào xác định rõ tầm quan trọng, ý nghĩa và chủ động, năng động sáng tạo trong cách làm đã khẳng định uy tín, thương hiệu trong quá trình nâng cao chất lượng đào tạo. Theo đánh giá của tôi, các trường tham gia chia sẻ hôm nay đều là những trường top trên, nhắc đến tên đã thấy thương hiệu.

Thưa bà Nguyễn Thị Mai Hoa, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, sau khi nghe các ý kiến của các cơ sở đào tạo về thực trạng chương trình liên kết đào tạo tại Việt Nam hiện nay, về phía người làm chính sách, quan điểm của bà như thế nào? Làm thế nào để nâng cao chất lượng chương trình đào tạo liên kết đào tạo với nước ngoài để tránh “sính ngoại”, thu hút học sinh ở lại Việt Nam học tập ở những trường đại học tốt nhất, những trường đại học đã vào top 1000 thế giới? Quốc hội có dự kiến ngân sác

Liên quan tới tiếp cận chính sách, tôi nhìn thấy ở tầm của những trường đầu ngành, chúng ta rất tự tin vào quá trình liên kết đào tạo. Nhưng nhìn ở bức tranh rộng lớn hơn, ở mấy trăm trường đại học, nhìn ở hơn 300 chương trình đào tạo, chúng ta thấy vẫn còn trăn trở nhiều vấn đề. Đâu đó vẫn có đối tác trong quá trình đào tạo, uy tín và chất lượng không bảo đảm. Đâu đó còn trăn trở của người học, về việc chi khoản tiền không nhỏ cho đào tạo, nhưng bù lại, họ được cái gì? Không phải là bằng cấp mà là các chứng chỉ, khi đi vào thị trường lao động đã không được công nhận. Đây là câu chuyện mà hàng ngày hàng giờ chúng ta bắt gặp. Qua tiếp xúc cử tri, nhiều cử tri cũng bày tỏ trăn trở về vấn đề các chương trình liên kết đào tạo.

Quay trở lại câu chuyện đang bàn là có hay không vấn đề "sính ngoại", có hay không vấn đề chạy theo số lượng mà quên đi chất lượng? Câu trả lời chắc chắn là có và số lượng cơ sở giáo dục đại học vi phạm về liên kết đào tạo không phải là ít.

Câu chuyện hôm nay chúng ta bàn đến với những cách làm hay, sáng tạo của những trường top đầu mà các thầy cô chia sẻ thực sự đã đem lại những kinh nghiệm quý báu. Tôi nghĩ cần chia sẻ câu chuyện này để cho nhiều cơ sở giáo dục có bài học kinh nghiệm trong quá trình liên kết đào tạo với nước ngoài.

Chúng ta đang bàn đến câu chuyện chất lượng của chương trình đào tạo, nhưng không chỉ là chương trình đào tạo liên kết với nước ngoài, mà là câu chuyên liên quan trao đổi giảng viên, trao đổi học sinh… để nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Tôi thích cách tiếp cận các thầy đưa ra, thay vì nhìn ở chỗ muốn nhập khẩu các chương trình tiên tiến để nâng cao chất lượng của mình, chúng ta đang nhìn ở góc tích cực hơn, nhìn ở thế mạnh của mình, một số trường đã làm, dù ít. Tôi nghĩ đây là câu chuyện, điểm sáng mà chúng ta tự tin trong những năm tới có thể "xuất khẩu" chương trình, nhân lực chất lượng cao ra các nước. Và thương hiệu hay uy tín hay đẳng cấp chính là ở câu chuyện chúng ta tiếp cận thay đổi, tư thế của chúng ta như thế nào khi liên kết đào tạo với nước ngoài.

Từ cách tiếp cận ấy, giải pháp cũng được bàn đến. Thứ nhất là câu chuyện tư duy, cần xác định rõ tư duy một cách đầy đủ, đúng nhất về liên kết đào tạo, không chỉ là chuyện chương trình, mà còn là chuyện đội ngũ, các yếu tố bảo đảm khác. Và không chỉ là câu chuyện số lượng, mà là chuyện chất lượng. Không chỉ là câu chuyện doanh thu để bảo đảm điều kiện của các cơ sở giáo dục đại học, mà còn là vấn đề thương hiệu. Tôi nghĩ cách tiếp cận này có lẽ cần có những cuộc họp khác để bàn thảo sâu hơn, rõ hơn để chúng ta có cách nhìn đúng, tích cực, đầy đủ hơn với vấn đề liên kết đào tạo. Tất nhiên, vai trò vào cuộc của các cơ quan thông tin truyền thông đại chúng, vai trò định hướng của Bộ Giáo dục và Đào tạo rất rõ.

Về hoàn thiện cơ sở pháp lý, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có bước chuẩn bị để sắp tới ban hành thông tư về vấn đề này. Nếu có định hướng rõ hơn, nếu có văn bản hướng dẫn cụ thể, thì chắc chắn cách làm của các trường sẽ đi những bước đi đúng hơn, không chỉ một số trường top trên, mà cả các trường khác. Tôi có suy nghĩ không phải các trường làm sai, mà do họ chưa có cách tiếp cận đúng, hoặc chưa có giải pháp đúng nên không có chương trình liên kết đào tạo đạt chất lượng như chúng ta mong muốn. Ở đây vai trò của Bộ Giáo dục và Đào tạo rất rõ.

Thưa bà Nguyễn Thị Mai Hoa, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, sau khi nghe các ý kiến của các cơ sở đào tạo về thực trạng chương trình liên kết đào tạo tại Việt Nam hiện nay, về phía người làm chính sách, quan điểm của bà như thế nào? Làm thế nào để nâng cao chất lượng chương trình đào tạo liên kết đào tạo với nước ngoài để tránh “sính ngoại”, thu hút học sinh ở lại Việt Nam học tập ở những trường đại học tốt nhất, những trường đại học đã vào top 1000 thế giới? Quốc hội có dự kiến ngân sác

Hoàn thiện hành lang pháp lý không chỉ là câu chuyện ban hành văn bản, mà quan trọng hơn quá trình ban hành văn bản phải đồng hành với triển khai đồng bộ thanh tra kiểm tra, giám sát, làm sao phát hiện dấu hiệu chưa đúng để điều chỉnh, xử lý trường hợp sai để tránh ảnh hưởng tới bức tranh chung của giáo dục đại học. Trong quá trình thanh tra giám sát cũng phát hiện mô hình làm hay, làm đúng để lan tỏa. Đây là câu chuyện khi xây dựng hành lang pháp lý, chính sách.

Cuối cùng, câu chuyện tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình của các trường. Cơ sở giáo dục đào tạo nào làm tốt tự chủ, chủ động trong xây dựng chương trình liên kết đào tạo, chủ động tìm đối tác đúng tầm thì hướng đi ấy đúng. Trách nhiệm giải trình, tôi cũng quan tâm sự minh bạch trong cung cấp thông tin. Người dân, sinh viên cần được thông tin chính xác về đối tác liên kết đào tạo, về đầu ra, về nội dung, yêu cầu mà người học tham gia sẽ được cái gì… Sự minh bạch trong thông tin của các trường phải rất rõ.

Quá trình sửa Luật Giáo dục đại học 2018 không đặt ra vấn đề cần phải chi ngân sách như thế nào để cho một số trường mạnh hơn. Nhưng trong Luật Giáo dục khi sửa đã đưa vào quy định 20% ngân sách của Nhà nước phục vụ chi cho giáo dục, đây là thắng lợi lớn. Qua theo dõi đánh giá, những năm vừa qua chúng ta chưa đạt được 20%, thực chi mới được 17-18%. Câu chuyện ngân sách chi cho giáo dục đại học của Việt Nam cũng rất thấp, chỉ tầm 0,27% GDP (con số của năm 2020). Luật chưa có quy định cụ thể chi bao nhiêu ngân sách cho giáo dục đại học, nhưng trong Luật Giáo dục đã có quy định ưu tiên đầu tư phát triển một số cơ sở giáo dục đại học, một số ngành đào tạo mang tầm khu vực quốc tế.

Hiện nay, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục đang phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, ĐH Quốc gia Hà Nội chuẩn bị tổ chức Hội thảo Giáo dục năm 2022, chủ đề hướng tới chất lượng giáo dục đại học. Do nhiều điều kiện, hội thảo diễn ra đầu năm 2023, công tác chuẩn bị hướng tới hội thảo không phải nghiên cứu chuyên môn, mà hướng tới chính sách, bảo đảm cho chất lượng giáo dục đại học thì cần chính sách như thế nào? Hy vọng hội thảo có sự tham gia của các thầy cô ở các trường đại học trên toàn quốc, sẽ có một đóng góp quan trọng vào việc xây dựng chính sách, để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, trong đó sẽ bàn tới câu chuyện liên kết giáo dục đại học, liên kết đào tạo với nước ngoài.

Nhịp cầu giáo dục

Thủ tướng Phạm Minh Chính và Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới GS. Klaus Schwab giao lưu với sinh viên
Chính trị

Thủ tướng Phạm Minh Chính và Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới GS. Klaus Schwab giao lưu với sinh viên

Ngày 7.10, tại Đại học Quốc gia Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Nhà sáng lập kiêm Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) Giáo sư Klaus Schwab giao lưu với sinh viên về chủ đề: “Định vị Việt Nam trong kỷ nguyên thông minh - Tầm nhìn cho thế hệ trẻ”.

Malaysia đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học như thế nào?
Giáo dục

Malaysia đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học như thế nào?

Khi Malaysia tiến tới mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao, việc nâng cao khả năng tiếng Anh là trọng tâm quan trọng trong hệ thống giáo dục của đất nước. Quốc gia Đông Nam Á này đã triển khai một loạt chính sách cụ thể nhằm cải thiện chất lượng giảng dạy tiếng Anh trong các trường học, không chỉ nhằm nâng cao kỹ năng ngôn ngữ, mà còn giúp học sinh giành ưu thế trong môi trường quốc tế.

4 “chàng trai Vàng” Olympic quốc tế Sinh học, Hóa học năm 2024 chọn Trường Đại học Y Hà Nội
Giáo dục

4 “chàng trai Vàng” Olympic quốc tế Sinh học, Hóa học năm 2024 chọn Trường Đại học Y Hà Nội

Các “chàng trai Vàng” Olympic Sinh học quốc tế (IBO) năm 2024 gồm: Nguyễn Tiến Lộc, Nguyễn Sĩ Hiếu, Đặng Tuấn Anh; cùng Nguyễn Hữu Tiến Hưng - Huy chương Vàng, thí sinh có điểm cao nhất đoàn Việt Nam tại Olympic Hóa học Quốc tế (IChO) 2024 cùng chọn theo học ngành Y khoa, Trường Đại học Y Hà Nội.