Rác thải thủy tinh là vĩnh cửu
Tại hội thảo chuyên đề "Hoạt động tái chế thủy tinh tại Việt Nam" do Viện Kinh tế Môi trường Đông Nam Á tổ chức chiều 15.1, ông Mai Thanh Dung, Phó viện trưởng Viện Chiến lược - Chính sách Tài nguyên và Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết, tỷ lệ tái chế bao bì thủy tinh thấp nhất trong khi đây loại rác thải vĩnh cửu.
"Nếu không được tái chế, rác thải thủy tinh sẽ tồn tại vĩnh viễn với môi trường. Vì vậy, hoạt động tái chế thủy tinh cần được quan tâm hơn”, ông Dung cho biết.
Thay mặt nhóm nghiên cứu công bố báo cáo "Tái chế thuỷ tinh tại Việt Nam: Thách thức và đề xuất chính sách", ông Hồ Đức Thông, Viện Kinh tế Môi trường Đông Nam Á, cho biết, tại Việt Nam, khối lượng rác thải rắn đã tăng đáng kể từ 10% đến 16% mỗi năm và TP. Hồ Chí Minh là nơi tạo ra nhiều nhất.
Thành phần chính của rác thải đô thị là rác hữu cơ, chiếm 67%; và rác từ thủy tinh chiếm 4% tổng trọng lượng rác thải rắn đô thị.
Theo báo cáo Tỷ lệ tái chế và Chi phí tái chế Bao bì Đồ uống năm 2022 của Eunomia, bao bì bằng thủy tinh trên thị trường đồ uống chiếm 11% trong tổng số lượng và 62% tổng trọng lượng.
Bao bì đồ uống chiếm khoảng 20% tổng lượng rác bao bì được tạo ra tại Việt Nam, nhưng tỷ lệ thu gom hiện tại khá thấp và dao động theo loại vật liệu.
Trong khi lon nhôm có tỷ lệ tái chế cao hơn 70% do giá trị kinh tế cao hơn, chai nhựa có tỷ lệ tái chế tổng thể thấp hơn, dao động từ 32% đến 45%. Tỷ lệ tái chế cho chai thủy tinh là thấp nhất, ước tính chỉ 15% theo Eunomia.
Cũng theo ông Hồ Đức Thông, mặc dù, các doanh nghiệp sản xuất thuỷ tinh có nhu cầu lớn đối với vụn phế liệu thủy tinh để làm nguyên liệu đầu vào, nhưng cơ sở hạ tầng cho việc thu gom và tái chế thủy tinh vẫn chưa phát triển.
Việt Nam hiện vẫn thiếu hệ thống thu gom rác thải thủy tinh dẫn đến nhiều chai lọ bị vứt bỏ hoặc xử lý không đúng cách trong môi trường. "Việt Nam chưa triển khai một hệ thống toàn diện các thùng rác phân loại để người dân phân loại rác tại nguồn", ông nói.
Ông Thông cho rằng, rác thủy tinh màu và chai vỡ, mặc dù có thể tái chế, nhưng không nhận được nhiều sự chú ý từ người thu gom rác.
"Theo dữ liệu khảo sát của chúng tôi, chỉ có 6% vựa phế liệu mua chai lọ thủy tinh đã qua sử dụng. Nhu cầu thấp này từ các vựa ve chai không tạo nhiều động lực cho người thu mua phế liệu, người nhặt ve chai, và người thu gom rác thực hiện thu gom và bán phế liệu thủy tinh (chỉ có 5% người thu mua phế liệu mua thủy tinh; 8% người thu gom rác và người nhặt phế liệu thu gom phế liệu thủy tinh)", ông Thông nói.
Nhóm nghiên cứu cũng phát hiện rằng, khó khăn lớn trong việc thúc đẩy tái chế, tái sử dụng rác thải thủy tinh đó là chi phí thu gom quá lớn, thậm chí cao hơn chi phí nhập khẩu sản phẩm thủy tinh hoặc nhập khẩu vụn thủy tinh để sản xuất.
Giá của vụn thủy tinh không màu tại những nhà máy thủy tinh này thường dao động từ 2.250 đến 2.500 đồng/kg. Tuy nhiên, nguồn cung cho vụn thủy tinh không màu nội địa không ổn định và tương đối thấp.
Ngược lại, giá vụn thủy tinh không màu nhập khẩu với số lượng lớn lại rẻ hơn, khoảng 1.800 đồng/kg vào năm 2019 và khoảng 2.100 đồng/kg vào năm 2020. Do đó, các nhà sản xuất thủy tinh quy mô lớn lựa chọn nhập khẩu vụn thủy tinh từ nước ngoài do giá đầu vào rẻ hơn.
Xem xét thành lập hệ thống thu gom tập trung
Về khuyến nghị, ông Thông cho biết, các doanh nghiệp cần một khoảng thời gian áp dụng được giãn ra để có sự chuẩn bị và thử nghiệm các mô hình thu gom cũng như tuân thủ quy định về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR).
Cụ thể, nhóm nghiên cứu cho rằng, việc áp dụng quy định EPR từ 1.1.2024 đặt ra nhiều thách thức đối với cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp trong nước.
Trong khi nhiều doanh nghiệp lớn đã bắt đầu thử nghiệm các dự án thí điểm thu gom riêng của họ, các doanh nghiệp nhỏ vẫn cần thời gian và nguồn lực để chuẩn bị đầy đủ cho quy định EPR.
"Các nhà sản xuất có thể cần một khoảng thời gian từ 3 - 6 tháng để đánh giá tính khả thi của các phương án EPR khác nhau, đặc biệt là khi điều kiện hạ tầng hạn chế và tính sẵn sàng của cả hệ thống tái chế còn nhiều hạn chế. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp hay hiệp hội để thử nghiệm và thí điểm các mô hình thu gom và tái chế", ông Thông nói.
Ngoài ra, Chính phủ cần đưa ra quy định và xác định một ngưỡng yêu cầu tối thiểu về số lượng nguyên liệu đầu vào đến từ vật liệu tái chế. Xây dựng các chính sách thúc đẩy thiết kế bao bì thân thiện với môi trường, ví dụ như thiết kế nhãn thân thiện với môi trường, làm cho chai dễ thu gom, ưu tiên sử dụng chai thủy tinh không màu.
Chính phủ cũng nên đặt tiêu chuẩn bao bì thân thiện với môi trường. Theo thời gian, khi điều chỉnh các quy định EPR, quan trọng là tích hợp các chỉ số bao bì thân thiện với môi trường này.
Đối với các nhà sản xuất bao bì thuỷ tinh, ông Thông cho rằng, các nhà sản xuất sử dụng bao bì thủy tinh có thể xem xét việc thành lập hệ thống thu gom tập trung vào các điểm bán hàng chính của họ, ví dụ như các quán bar lớn, cửa hàng và nhà hàng lớn. Điều này đòi hỏi sự phối hợp hợp tác giữa các thành viên khác nhau trong hiệp hội.
Ở giai đoạn sau, để giảm chi phí thu gom rác thải thủy tinh, các nhà sản xuất nên dựa vào hệ sinh thái thu gom và tái chế chất thải rắn hiện tại bằng cách khuyến khích các công nhân thu gom chất thải và người mua phế liệu đã thu gom các loại vật liệu tái chế khác như nhôm, nhựa, giấy thu gom thêm rác thải thủy tinh.
Các nhà sản xuất nên xem xét tích hợp các dự án trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) và việc sử dụng quỹ môi trường để hỗ trợ người lao động trong ngành vốn là nhóm thiệt thòi trong xã hội. Điều này phục vụ nhiều mục đích, ví dụ, cải thiện việc tái chế chất thải thủy tinh và nâng cao uy tín trong cộng đồng.