Thủy tinh tồn tại vĩnh viễn nhưng tỷ lệ tái chế chỉ đạt 15%

Tỷ lệ tái chế chai thủy tinh ở Việt Nam rất thấp, chỉ đạt 15%, trong khi đây là loại rác thải không thể phân hủy và tồn tại vĩnh viễn trong môi trường.

Rác thải thủy tinh là vĩnh cửu

Tại hội thảo chuyên đề "Hoạt động tái chế thủy tinh tại Việt Nam" do Viện Kinh tế Môi trường Đông Nam Á tổ chức chiều 15.1, ông Mai Thanh Dung, Phó viện trưởng Viện Chiến lược - Chính sách Tài nguyên và Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết, tỷ lệ tái chế bao bì thủy tinh thấp nhất trong khi đây  loại rác thải vĩnh cửu.

"Nếu không được tái chế, rác thải thủy tinh sẽ tồn tại vĩnh viễn với môi trường. Vì vậy, hoạt động tái chế thủy tinh cần được quan tâm hơn”, ông Dung cho biết.

Thủy tinh tồn tại vĩnh viễn nhưng tỷ lệ tái chế chỉ đạt 15% -0
Ông Mai Thanh Dung, Phó viện trưởng Viện Chiến lược - Chính sách Tài nguyên và Môi trường phát biểu tại hội thảo.

Thay mặt nhóm nghiên cứu công bố báo cáo "Tái chế thuỷ tinh tại Việt Nam: Thách thức và đề xuất chính sách", ông Hồ Đức Thông, Viện Kinh tế Môi trường Đông Nam Á, cho biết, tại Việt Nam, khối lượng rác thải rắn đã tăng đáng kể từ 10% đến 16% mỗi năm và TP. Hồ Chí Minh là nơi tạo ra nhiều nhất.

Thành phần chính của rác thải đô thị là rác hữu cơ, chiếm 67%; và rác từ thủy tinh chiếm 4% tổng trọng lượng rác thải rắn đô thị.

Theo báo cáo Tỷ lệ tái chế và Chi phí tái chế Bao bì Đồ uống năm 2022 của Eunomia, bao bì bằng thủy tinh trên thị trường đồ uống chiếm 11% trong tổng số lượng và 62% tổng trọng lượng.

Bao bì đồ uống chiếm khoảng 20% tổng lượng rác bao bì được tạo ra tại Việt Nam, nhưng tỷ lệ thu gom hiện tại khá thấp và dao động theo loại vật liệu.

Trong khi lon nhôm có tỷ lệ tái chế cao hơn 70% do giá trị kinh tế cao hơn, chai nhựa có tỷ lệ tái chế tổng thể thấp hơn, dao động từ 32% đến 45%. Tỷ lệ tái chế cho chai thủy tinh là thấp nhất, ước tính chỉ 15% theo Eunomia.

Cũng theo ông Hồ Đức Thông, mặc dù, các doanh nghiệp sản xuất thuỷ tinh có nhu cầu lớn đối với vụn phế liệu thủy tinh để làm nguyên liệu đầu vào, nhưng cơ sở hạ tầng cho việc thu gom và tái chế thủy tinh vẫn chưa phát triển.

Việt Nam hiện vẫn thiếu hệ thống thu gom rác thải thủy tinh dẫn đến nhiều chai lọ bị vứt bỏ hoặc xử lý không đúng cách trong môi trường. "Việt Nam chưa triển khai một hệ thống toàn diện các thùng rác phân loại để người dân phân loại rác tại nguồn", ông nói.

Ông Thông cho rằng, rác thủy tinh màu và chai vỡ, mặc dù có thể tái chế, nhưng không nhận được nhiều sự chú ý từ người thu gom rác.

"Theo dữ liệu khảo sát của chúng tôi, chỉ có 6% vựa phế liệu mua chai lọ thủy tinh đã qua sử dụng. Nhu cầu thấp này từ các vựa ve chai không tạo nhiều động lực cho người thu mua phế liệu, người nhặt ve chai, và người thu gom rác thực hiện thu gom và bán phế liệu thủy tinh (chỉ có 5% người thu mua phế liệu mua thủy tinh; 8% người thu gom rác và người nhặt phế liệu thu gom phế liệu thủy tinh)", ông Thông nói.

Thủy tinh tồn tại vĩnh viễn nhưng tỷ lệ tái chế chỉ đạt 15% -0
Ông Hồ Đức Thông, Viện Kinh tế Môi trường Đông Nam Á, công bố báo cáo "Tái chế thuỷ tinh tại Việt Nam: Thách thức và đề xuất chính sách".

Nhóm nghiên cứu cũng phát hiện rằng, khó khăn lớn trong việc thúc đẩy tái chế, tái sử dụng rác thải thủy tinh đó là chi phí thu gom quá lớn, thậm chí cao hơn chi phí nhập khẩu sản phẩm thủy tinh hoặc nhập khẩu vụn thủy tinh để sản xuất.

Giá của vụn thủy tinh không màu tại những nhà máy thủy tinh này thường dao động từ 2.250 đến 2.500 đồng/kg. Tuy nhiên, nguồn cung cho vụn thủy tinh không màu nội địa không ổn định và tương đối thấp.

Ngược lại, giá vụn thủy tinh không màu nhập khẩu với số lượng lớn lại rẻ hơn, khoảng 1.800 đồng/kg vào năm 2019 và khoảng 2.100 đồng/kg vào năm 2020. Do đó, các nhà sản xuất thủy tinh quy mô lớn lựa chọn nhập khẩu vụn thủy tinh từ nước ngoài do giá đầu vào rẻ hơn.

Xem xét thành lập hệ thống thu gom tập trung

Về khuyến nghị, ông Thông cho biết, các doanh nghiệp cần một khoảng thời gian áp dụng được giãn ra để có sự chuẩn bị và thử nghiệm các mô hình thu gom cũng như tuân thủ quy định về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR).

Cụ thể, nhóm nghiên cứu cho rằng, việc áp dụng quy định EPR từ 1.1.2024 đặt ra nhiều thách thức đối với cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp trong nước.

Trong khi nhiều doanh nghiệp lớn đã bắt đầu thử nghiệm các dự án thí điểm thu gom riêng của họ, các doanh nghiệp nhỏ vẫn cần thời gian và nguồn lực để chuẩn bị đầy đủ cho quy định EPR.

"Các nhà sản xuất có thể cần một khoảng thời gian từ 3 - 6 tháng để đánh giá tính khả thi của các phương án EPR khác nhau, đặc biệt là khi điều kiện hạ tầng hạn chế và tính sẵn sàng của cả hệ thống tái chế còn nhiều hạn chế. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp hay hiệp hội để thử nghiệm và thí điểm các mô hình thu gom và tái chế", ông Thông nói. 

Ngoài ra, Chính phủ cần đưa ra quy định và xác định một ngưỡng yêu cầu tối thiểu về số lượng nguyên liệu đầu vào đến từ vật liệu tái chế. Xây dựng các chính sách thúc đẩy thiết kế bao bì thân thiện với môi trường, ví dụ như thiết kế nhãn thân thiện với môi trường, làm cho chai dễ thu gom, ưu tiên sử dụng chai thủy tinh không màu.

Chính phủ cũng nên đặt tiêu chuẩn bao bì thân thiện với môi trường. Theo thời gian, khi điều chỉnh các quy định EPR, quan trọng là tích hợp các chỉ số bao bì thân thiện với môi trường này.

Đối với các nhà sản xuất bao bì thuỷ tinh, ông Thông cho rằng, các nhà sản xuất sử dụng bao bì thủy tinh có thể xem xét việc thành lập hệ thống thu gom tập trung vào các điểm bán hàng chính của họ, ví dụ như các quán bar lớn, cửa hàng và nhà hàng lớn. Điều này đòi hỏi sự phối hợp hợp tác giữa các thành viên khác nhau trong hiệp hội.

Thủy tinh tồn tại vĩnh viễn nhưng tỷ lệ tái chế chỉ đạt 15% -0
Các đại biểu trao đổi tại hội thảo.

Ở giai đoạn sau, để giảm chi phí thu gom rác thải thủy tinh, các nhà sản xuất nên dựa vào hệ sinh thái thu gom và tái chế chất thải rắn hiện tại bằng cách khuyến khích các công nhân thu gom chất thải và người mua phế liệu đã thu gom các loại vật liệu tái chế khác như nhôm, nhựa, giấy thu gom thêm rác thải thủy tinh.

Các nhà sản xuất nên xem xét tích hợp các dự án trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) và việc sử dụng quỹ môi trường để hỗ trợ người lao động trong ngành vốn là nhóm thiệt thòi trong xã hội. Điều này phục vụ nhiều mục đích, ví dụ, cải thiện việc tái chế chất thải thủy tinh và nâng cao uy tín trong cộng đồng.

Môi trường

Kinh nghiệm công nghệ cho Việt Nam trong xử lý rác thải
Môi trường

Kinh nghiệm công nghệ cho Việt Nam trong xử lý rác thải

Tại Tọa đàm “Tăng cường kiểm soát nguồn thải, quản lý chất thải rắn để cải thiện môi trường" do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức vào sáng 18.9, Viện trưởng Viện Công nghệ VinIT GS.TSKH Nguyễn Quốc Sỹ đã chỉ ra 5 nhóm công nghệ chủ chốt thế giới đang dùng để xử lý chất thải rắn, cùng các bài học kinh nghiệm về vấn đề xử lý rác trên thế giới. 

Biến rác thải thành nguồn lực thúc đẩy kinh tế tuần hoàn
Môi trường

Biến rác thải thành nguồn lực thúc đẩy kinh tế tuần hoàn

Luật Bảo vệ môi trường đổi mới phương thức quản lý chất thải rắn, coi chất thải là tài nguyên sau khi được phân loại để góp phần thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Vì vậy, việc đẩy mạnh xã hội hóa và thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân, nước ngoài vào hoạt động thu gom, phân loại chất thải, tái chế, tái sử dụng chất thải, xử lý chất thải là cần thiết, biến rác thải thành nguồn lực cho phát triển bền vững kinh tế - xã hội.

Khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực xử lý chất thải
Môi trường

Khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực xử lý chất thải

Trong bối cảnh phát triển kinh tế tuần hoàn nhằm góp phần đạt được các mục tiêu phát triển bền vững vào năm 2030 và mục tiêu phát thải ròng bằng “0” cho đến năm 2050, Nhà nước cần có cơ chế ưu đãi, khuyến khích, tạo động lực cho các doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào lĩnh vực xử lý chất thải.

Xã hội hóa ngành công nghiệp xử lý và tái chế rác
Xã hội

Xã hội hóa ngành công nghiệp xử lý và tái chế rác

Nhà nước không thể bao cấp hết trong khi ngân sách nhà nước có hạn, nền kinh tế chưa cho phép, do đó phải xã hội hóa ngành công nghiệp xử lý và tái chế rác. Ngoài ra, phải cân nhắc, lựa chọn công nghệ phù hợp với loại rác cần xử lý và công nghệ đó cần được cải tiến, phù hợp điều kiện của Việt Nam.

Phát sinh khoảng 60.000 tấn rác thải nhưng chỉ tái chế được 15%
Môi trường

Phát sinh khoảng 60.000 tấn rác thải nhưng chỉ tái chế được 15%

Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam, Tổng Biên tập Tạp chí Môi trường và Cuộc sống Nguyễn Văn Toàn nhận định, hiện tiềm năng phát triển của ngành công nghiệp tái chế là rất lớn. Tuy nhiên, trong khoảng 60.000 tấn rác thải phát sinh thì chúng ta chỉ có 15% được thu gom thái chế, sử dụng.

Hiệu quả xử lý rác đang rất thấp
Xã hội

Hiệu quả xử lý rác đang rất thấp

Tại tọa đàm “Tăng cường kiểm soát nguồn thải, quản lý chất thải rắn để cải thiện môi trường” do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức sáng 18.9, ông Nguyễn Quang Huân, Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Chủ tịch HĐQT Công ty Halcom Việt Nam nhấn mạnh hiệu quả xử lý rác trên thực tế hiện đang rất thấp.

Tăng cường quản lý chất thải rắn để cải thiện môi trường
Xã hội

Tăng cường quản lý chất thải rắn để cải thiện môi trường

Đây là nhấn mạnh của ông Nguyễn Hữu Tiến, Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Môi trường đô thị và khu công nghiệp Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Môi trường Đô thị Hà Nội Urenco tại Tọa đàm “Tăng cường kiểm soát nguồn thải, quản lý chất thải rắn để cải thiện môi trường”, do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức sáng 18.9.

Chung tay tái thiết, khắc phục hậu quả sau siêu bão Yagi
Môi trường

Chung tay tái thiết, khắc phục hậu quả sau siêu bão Yagi

Cơn bão Yagi (cơn bão số 3) đã để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng tại nhiều tỉnh miền Bắc, trong đó có Thủ đô Hà Nội. Mặc dù, đã có sự chuẩn bị, ứng phó nhưng siêu bão vẫn để lại những mất mát và hậu quả rất nặng nề ở những nơi bão đi qua. Sau bão, Đảng, Nhà nước, chính quyền và người dân địa phương nỗ lực khắc phục hậu quả, tái thiết cuộc sống.