Bổ sung các trường hợp không thực hiện thời giờ làm thêm trong 1 năm
Trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thời giờ làm thêm trong 1 tháng và trong 1 năm của người lao động, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh cho biết, về việc mở rộng đối tượng làm thêm giờ trong 1 năm không quá 300 giờ (Điều 1), tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và đa số ý kiến của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Ủy ban Xã hội và cơ quan chủ trì soạn thảo thống nhất chỉnh lý Điều 1 của dự thảo Nghị quyết theo hướng bổ sung các trường hợp không thực hiện thời giờ làm thêm theo Nghị quyết này như sau: người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi; người lao động là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; người lao động làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7 hoặc từ tháng thứ 6 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Về mức trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng (Điều 2), Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội cho biết, trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý, tiếp tục có 2 loại ý kiến về vấn đề này. Loại ý kiến thứ nhất (của Ủy ban Xã hội) cho rằng, việc nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng lên mức không quá 72 giờ là quá cao mà cơ quan soạn thảo chưa đưa ra căn cứ thuyết phục. Do đó, đề nghị chỉ nên nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng từ không quá 40 giờ lên không quá không quá 60 giờ, tương ứng với việc được áp dụng thời gian làm thêm tối đa trong 1 năm từ 200 giờ lên không quá 300 giờ (150%). Đây cũng là ý kiến được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam lựa chọn để thực hiện mục tiêu bảo đảm sức khỏe, tái tạo sức lao động, an toàn lao động của người lao động.
Loại ý kiến thứ hai đồng tình nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng từ không quá 40 giờ lên không quá 72 giờ như Tờ trình của Chính phủ và cho rằng, đây là mức hợp lý trong bối cảnh hiện nay. Đây cũng là ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam.
Do còn hai loại ý kiến khác nhau, theo sự chỉ đạo của Lãnh đạo Quốc hội, Thường trực Ủy ban Xã hội đã xin ý kiến thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội về hai phương án này. Kết quả: 13/18 ý kiến tán thành phương án 1; và 5/18 ý kiến tán thành phương án 2. Trên cơ sở kết quả biểu quyết, Thường trực Ủy ban Xã hội đã tiếp thu ý kiến của đa số thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội và thể hiện Điều 2 của dự thảo theo hướng: trường hợp người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm tối đa 300 giờ trong 1 năm có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động thì được sử dụng người lao động làm thêm trên 40 giờ nhưng không quá 60 giờ trong 1 tháng.
Về hiệu lực thi hành, tiếp thu ý kiến góp ý, Ủy ban Xã hội và cơ quan chủ trì soạn thảo thống nhất quy định Nghị quyết có hiệu lực bắt đầu từ 1.4.2022; quy định về thời giờ làm thêm trong 1 năm có hiệu lực từ ngày 1.1.2022 và thể hiện tại Điều 4 dự thảo Nghị quyết. Thời điểm hết hiệu lực sẽ theo Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28.7.2021của Quốc hội.
Cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lâu dài
Liên quan đến đề xuất của Chính phủ về nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng từ không quá 40 giờ lên không quá 72 giờ, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết, trong suốt thời gian Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ xem xét dự thảo Nghị quyết này, cá nhân Chủ tịch Quốc hội không nhận được văn bản nào của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp gửi tới để đề nghị nâng trần thời gian làm thêm giờ trong một tháng lên đến 72 giờ.
Chủ tịch Quốc hội lưu ý, hiện nay, “hậu covid-19” đang là vấn đề lớn đặt ra và không phải người lao động nào sau khi khỏi Covid-19 cũng có thể duy trì được trạng thái sức khỏe, tâm lý tốt để bắt tay ngay vào làm việc. Do đó, Chủ tịch Quốc hội đề nghị, cần cân nhắc bảo đảm hài hòa lợi ích, giữa lợi ích trước mắt (về kinh tế) và lợi ích lâu dài (về sức khỏe của người lao động) trong giải quyết bài toán thiếu hụt lao động hiện nay.
Chủ tịch Quốc hội cũng cho biết, hiện nay, bên cạnh chính sách về thời giờ làm thêm của người lao động, chúng ta còn nhiều chính sách khác để phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh phòng, chống dịch Covid-19 như chính sách ưu đãi, thu hút người lao động trở lại làm việc. Trong gói phục hồi kinh tế trị giá 135 nghìn tỷ cũng có nhiều tiền để bù đắp cho thiếu hụt lao động đang xảy ra. Chúng ta còn có chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động và nhiều chính sách khác… Nêu vấn đề này, Chủ tịch Quốc hội cho rằng, phải hết sức thận trọng, khách quan trong quyết định mức trần số giờ làm thêm trong 1 tháng.
Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương nhấn mạnh, mục tiêu xuyên suốt của chế độ ta là tăng lương, giảm giờ làm. Hơn nữa, đại dịch Covid-19 luôn được xem là cơ hội để chúng ta áp dụng đổi mới sáng tạo trong phương thức làm việc, chuyển đổi mô hình tăng trưởng… Do đó, Phó Chủ tịch Quốc hội cho rằng, phương án tăng giờ làm thêm của người lao động lên không quá 60 giờ trong 1 tháng như quan điểm của Ủy ban Xã hội là phù hợp trong điều kiện hiện nay.
Kết luận nội dung này, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn, đề nghị Bộ Y tế lưu ý phối hợp với các bộ, ngành liên quan nhằm đánh giá các di chứng “hậu covid-19” ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội báo cáo rà soát thêm các doanh nghiệp mong muốn tăng giờ làm thêm của người lao động để bảo đảm cung cấp đủ đơn đặt hàng, nhằm giải quyết hài hòa giữa lợi ích của doanh nghiệp và người lao động.