Còn đó những thách thức
Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên, điều chỉnh mức sinh hợp lý mang ý nghĩa sống còn không chỉ với chính sách dân số mà với các chính sách quốc gia. Bởi con người là động lực, là mục tiêu của sự phát triển trong xã hội hiện đại. Sự bất ổn về cơ cấu, quy mô dân số sẽ gây hệ lụy, ảnh hưởng đến sự phát triển của mỗi quốc gia.
Những năm gần đây, sau khi Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu giảm sinh, số lượng nghiên cứu xã hội học về mức sinh cũng như về dân số nói chung có chiều hướng giảm rõ rệt, song thực tế hiện nay chúng ta đang đối mặt với thực trạng chênh lệch mức sinh đáng kể giữa các vùng, các đối tượng.
Thống kê của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế cho thấy, hiện có 33 tỉnh có mức sinh cao (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có trên 2,2 con) với quy mô dân số là 39,8 triệu người, chiếm hơn 41% dân số cả nước, tập trung tại vùng Trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, trong đó nhiều tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội còn rất khó khăn.
21 tỉnh, thành phố có mức sinh thấp (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có dưới 2,2 con) với quy mô dân số là 37,9 triệu người chiếm gần 40% dân số cả nước, tập trung ở khu vực Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long và duyên hải miền Trung. Và 9 tỉnh, thành phố có mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có từ 2,0 con đến 2,2 con).
Đánh giá về thực trạng trên, các chuyên gia về dân số - kế hoạch hóa gia đình cho rằng, dù nước ta đạt được mức sinh thay thế nhưng lại có sự chênh lệch mức sinh giữa các vùng miền cao. Điều này dẫn đến sự mất cân đối về dân số và phát triển xã hội. Cụ thể, những vùng cao hơn mức sinh thay thế chủ yếu là những vùng khó khăn, kém phát triển; điều kiện để tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao ở vùng đó rất thiếu thốn.
Còn những vùng kinh tế lớn như TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương… mức sinh thay thế lại rất thấp, nếu kéo dài sẽ để lại nhiều hệ lụy như già hóa dân số nhanh, thiếu hụt lao động, ảnh hưởng đến an sinh xã hội. Như vậy sẽ tạo ra sự chênh lệch về mặt chất lượng dân số. Vùng tỷ lệ sinh cao càng khó phát triển hơn, vùng tỷ lệ sinh thấp thì đã phát triển cao thì lại càng hạ thấp xuống.
Tổng Cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Nguyễn Doãn Tú cho rằng, nguyên nhân khiến mức sinh thấp do xu hướng kết hôn muộn, không muốn đẻ, đẻ ít, đẻ thưa ngày càng cao; tỷ lệ đô thị hóa tăng và phát triển kinh tế dẫn đến áp lực tìm kiếm việc làm, nhà ở, chi phí sinh hoạt, chi phí nuôi dạy và chăm sóc con… Đây là những thách thức lớn đối với công tác dân số trong tương lai.

Linh hoạt trong tuyên truyền
Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 25.10.2017, của Hội nghị Trung ương 6 Khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới khẳng định: quan điểm dân số là yếu tố quan trọng hàng đầu, công tác dân số là nhiệm vụ chiến lược vừa cấp thiết, vừa lâu dài của toàn Đảng, toàn dân và chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển. Theo đó, Đảng ta đã đưa ra mục tiêu duy trì vững chắc mức sinh thay thế, giảm chênh lệch mức sinh giữa các vùng, miền, giảm mất cân bằng giới tính khi sinh vào năm 2030.
Thực hiện các nhiệm vụ trên, đặc biệt để giải quyết tình trạng chênh lệch mức sinh giữa các vùng, miền, bảo đảm giữ vững mức sinh thay thế hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 588/QĐ-TTg ngày 28.2.2020 phê duyệt "Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030" với mục tiêu: tăng 10% tổng tỷ suất sinh ở các tỉnh, thành phố có mức sinh thấp; giảm 10% tổng tỷ suất sinh ở các tỉnh, thành phố có mức sinh cao; duy trì kết quả ở những tỉnh, thành phố đã đạt mức sinh thay thế.
Có thể thấy, mục tiêu trên là rất cụ thể, điều này đặt ra yêu cầu đối với địa phương có mức sinh cao, cần tiếp tục áp dụng và nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích cộng đồng không có người sinh con thứ ba trở lên; hỗ trợ người dân thực hiện các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình. Đối với địa phương đã đạt mức sinh thay thế và có mức sinh thấp, cần rà soát, bãi bỏ các chính sách khuyến khích sinh con ít. Quyết định cũng đặt ra các yêu cầu nhiệm vụ, hoạt động cần ưu tiên thực hiện đến mục tiêu giảm sinh, tiêu chí giảm sinh con thứ ba trở lên; sửa đổi, bổ sung các chính sách hỗ trợ, khuyến khích các cặp vợ chồng sinh đủ hai con...
Tuy nhiên, để bảo đảm việc triển khai thực hiện các mục tiêu có hiệu quả, việc tăng cường, thực hiện giải pháp thay đổi chính sách truyền thông về dân số cho phù hợp đối với từng vùng miền là điều cần thiết. Chẳng hạn, đối với vùng mức sinh cao, khẩu hiệu vận động là "Dừng ở hai con để nuôi, dạy cho tốt"; nội dung truyền thông chú trọng vào việc tuyên truyền về lợi ích của việc sinh ít con đối với phát triển kinh tế - xã hội và nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc...
Với vùng mức sinh thay thế và vùng mức sinh thấp, khẩu hiệu vận động là "Mỗi gia đình, cặp vợ chồng sinh đủ hai con", nội dung truyền thông tập trung vào nâng cao ý thức trách nhiệm về quyền và nghĩa vụ công dân trong việc thực hiện mỗi cặp vợ chồng có 2 con, nuôi dạy con tốt, gia đình hạnh phúc; lợi ích của việc sinh đủ hai con; các yếu tố bất lợi của việc kết hôn, sinh con quá muộn; sinh ít con đối với phát triển kinh tế - xã hội; đối với gia đình và chăm sóc bố, mẹ khi về già...