Thị trường CPTPP tăng trưởng mạnh
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), sau 5 năm CPTPP có hiệu lực (ngày 14.1.2019), thủy sản là một trong những ngành có nhiều thay đổi tích cực nhờ tận dụng ưu đãi thuế quan trong thương mại với các nước thành viên. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang khối CPTPP tăng từ 2,2 tỷ USD năm 2018 lên mức đỉnh 2,9 tỷ USD vào năm 2022 và đạt 2,4 tỷ USD vào năm 2023. CPTPP là nhóm thị trường có tỷ trọng tăng trưởng mạnh thứ 2, sau Trung Quốc; từ 25% (2018) lên đến 27% (2023).
Giám đốc Truyền thông VASEP Lê Hằng cho biết, sự gia tăng xuất khẩu vào các nước thành viên CPTPP mạnh mẽ hơn so với các thị trường khác. Tại Canada thị phần tăng từ 7-8% lên 10%, trong đó riêng tôm tăng từ 18% lên 25% và đứng số 1; cá ngừ cũng tăng từ 6% lên 11% và đứng thứ 3. TạiAustralia, tôm Việt Nam chiếm thị phần áp đảo 70%, tăng gần gấp đôi so với 32% trước khi ký Hiệp định.Cùng với đó là xu hướng tăng nhập khẩu thủy sản vào Việt Nam để gia công, chế biến xuất khẩu đi các nước và cả tiêu thụ trong nước.
Sự hòa nhập còn thể hiện ở việc cùng nâng cao chất lượng, năng suất chế biến xuất khẩu nhờ những đầu tư, hợp tác về công nghệ, kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thủy sản.Hơn nữa, năm 2023 Vương quốc Anh đã tham gia cũng tạo thêm cơ hội cho thủy sản Việt Nam trong việc thâm nhập thị trường và hòa nhập bằng việc đa dạng nguồn nguyên liệu.
Hiện nay, theo hiệp định song phương Việt Nam với Anh, thuế nhập khẩu ưu đãi của các sản phẩm thủy sản chủ lực của Việt Nam vào Anh hầu hết về 0%. Tuy nhiên, còn một vài mã sản phẩm như tôm chế biến HS 160521 và 160529 vẫn đang bị mức thuế 7%. Hai dòng sản phẩm này của Việt Nam đều đang chiếm vị trí số 1 tại Anh, chi phối 36% thị phần, nhưng dư địa sẽ lớn hơn khi tôm Việt Nam được hưởng ưu đãi thuế quan CPTPP.
Ngoài ra, cơ hội cho việc đa dạng nguồn nguyên liệu chế biến xuất khẩu trong nội khối sẽ gia tăng. Anh hiện cũng là một đối tác cho các công ty Việt Nam trong hoạt động gia công mặt hàng hải sản từ Anh, như cá tuyết.
Nâng cao năng lực hệ thống logistics
Tuy nhiên, sau 5 năm, thách thức từ biến động địa chính trị, những bất cập nội tại phần nào làm giảm đi cơ hội tận dụng hiệu quả những lợi thế của CPTPP.
Từ góc độ thị trường, VASEP cho rằng, khả năng tăng sức cạnh tranh của ngành không thể là tuyệt đối khi các nước đối thủ như Ecuador, Ấn Độ có lợi thế về nguồn cung và giá cả và họ cũng ký hiệp định thương mại tự do (FTA) với một số nước trong nhóm CPTPP. Ví dụ Ấn Độ có FTA với Malaysia, Singapore, Nhật Bản, Chile, Australia; Ecuador có FTA với Chile, Peru...
Nhìn từ yếu tố khách quan, những biến động trên thế giới như dịch Covid-19, xung đột Nga - Ukraine dẫn đến đứt gãy chuỗi cung ứng, chi phí sản xuất tăng, thiếu nguyên liệu dẫn đến kịch bản hưởng lợi từ CPTPP không được như mong đợi.
Nội tại của ngành cũng nhiều thách thức khi việc hiểu và tận dụng hiệu quả ưu đãi thuế quan bằng việc sử dụng form mẫu C/O (giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa) phù hợpvẫn có bất cập. Doanh nghiệp không biết điều chỉnh linh hoạt form mẫu nào cho từng thị trường thì có lợi hơn, vì có những thị trường như Nhật Bản có FTA song phương, 3 FTA đa phương (ASEAN, RCEP, CPTPP)... Đồng thời, vẫn có sự cạnh tranh tại chính thị trường nội địa khi mà hàng thủy sản của các nước như Nhật Bản, Chile, Australia cũng phần nào làm mất thị phần trong tiêu thụ thủy sản trong nước.
Ngoài ra, thể chế hóa, cải cách môi trường đầu tư bên cạnh những tác động tích cực cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng có những quy định được đặt ra còn khắt khe hơn so với yêu cầu từ hiệp định hoặc là từ thị trường; nhất là liên quan đến môi trường và lao động.
Một thách thức nữa là logistic. Nhiều năm qua, nhất là giai đoạn từ 2020 trở lại đây có nhiều biến động như dịch Covid-19, chiến tranh, xung đột Nga - Ukraine, thủy sản xuất khẩu bộc lộ rõ điểm yếu và bất cập là phụ thuộc phần lớn vào hệ thống logistic của nước ngoài, kể cả kho lạnh và vận tải biển. Câu chuyện căng thẳng biển Đỏ mới đây lại một lần nữa bộc lộ sự thiết hụt của ngành logistic Việt Nam, khi mà các hãng tàu nước ngoài chi phối và độc quyền định giá và tăng giá cước cùng các giá dịch vụ vận tải.
Chính vì vậy, về lâu dài, bà Lê Hằng cho rằng, thương mại thủy sản trông chờ vào sự lớn mạnh của ngành logistic Việt Nam với mục tiêu lớn là phát triển đội tàu biển Việt Nam và hệ thống cung ứng container lạnh để nâng cao năng lực vận tải container quốc tế của Việt Nam. Khi đó, chúng ta mới có thế chủ động và khả năng cạnh tranh cao hơn trong chuỗi cung ứng hàng hóa, nhất là thực phẩm như thủy sản.
Tổng Thư ký VASEP Trương Đình Hòe nhấn mạnh thêm, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cần tăng tốc để chớp thời cơ trước khi các quốc gia tham gia CPTPP mở cửa hội nhập rộng hơn. Cụ thể là chú trọng gia tăng giá trị sản phẩm xuất khẩu, phù hợp với tiêu chí, thị hiếu của thị trường; ưu tiên hướng tới các sản phẩm xanh, bền vững, thân thiện với môi trường và phải có lộ trình phù hợp, có độ linh hoạt. Ngoài ra, cơ quan quản lý nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ phù hợp, nhanh chóng giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, bảo đảm xuất khẩu.