Trung tâm sản xuất gốm cổ quý
Trước khi chính thức phát hiện và nghiên cứu dòng gốm Chu Đậu, tại Bảo tàng Hải Dương, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và hơn 40 bảo tàng trên thế giới đã lưu trữ đồ gốm Chu Đậu, nhưng chỉ ghi chung là gốm cổ Việt Nam. Năm 1999, người ta đã khai quật một con tàu đắm tại Cù Lao Chàm, trục vớt được 20 tiêu bản gốm Chu Đậu và năm 2000 đem đấu giá tại Mỹ, khiến thế giới quan tâm sửng sốt.
Trên các thư tịch cổ, chính thức từ thời Hậu Lê (thế kỷ XV - XVIII) có ghi thôn Chu Đậu, cũng là xã Chu Đậu, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, thừa tuyên Hải Dương. Từ xưa xa, dòng sông Kè Đá chảy ngang qua phía Bắc thôn Chu Đậu, nối ra sông Thái Bình, khiến làng quê này trù phú, trên bến dưới thuyền, sớm phát đạt về kinh tế, thương mại. Đầu thế kỷ XX, do biến động về địa lý, sông Kè Đá đã bị bồi lấp. Nhưng hồi thế kỷ XIII, bến sông ở làng Chu Đậu luôn có thuyền buôn đi, đến từ bao nơi, như Trúc Sơn, Chí Linh; Hố Lao, Đông Triều; phố Hiến, Kinh thành Thăng Long hoặc ra biển đi tới nhiều miền xa xôi khác rất dễ dàng, thuận lợi. Đầu thế kỷ XIV, từ trung tâm gốm tráng men Vạn Yên, những thợ gốm đã theo sông Thái Bình tới Chu Đậu và Đặng Xá, làng liền kề Chu Đậu để lập nghiệp, bởi ở vùng quê này có nguồn đất sét rất phong phú và có thị trường phát đạt.
Có thể những biến động xã hội ở Hải Dương, đặc biệt là ở Nam Sách cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII là tác nhân mạnh nhất khiến gốm sứ Chu Đậu đi vào suy tàn. Binh hỏa của cuộc nội chiến Lê – Mạc (thực chất là cuộc truy diệt nhà Mạc của chúa Trịnh) khiến việc làm ăn của dân chúng vô cùng khó khăn. Thêm một cú huých khiến việc sản xuất gốm sứ Chu Đậu nói riêng và gốm sứ nước ta suy giảm mạnh là nhà Minh bỏ lệnh cấm người Trung Quốc ra nước ngoài bằng đường biển, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa Trung Quốc xuất cảng mạnh mẽ, đặc biệt là hàng gốm sứ. Sự tàn lụi của gốm sứ Chu Đậu thật nghiệt ngã, đến mức những năm tháng sau này không còn một lò gốm nào hoạt động, nghệ nhân bỏ nghề hoặc phải tới những trung tâm gốm sứ khác làm ăn…

Những nghệ nhân tài danh
Trong số những thợ gốm các miền tụ hội về Chu Đậu, nổi lên một tài nữ của thế kỷ XV là Bùi Thị Hý. Trên vai chiếc bình gốm hoa lam quý giá tại Bảo tàng Tokapi Saray, Thổ Nhĩ Kỳ có ghi chữ Hán: “Năm Thái Hòa thứ tám (tức năm 1450) thợ gốm Bùi Thị Hý tạo tác”. Hơn 5 thế kỷ sau, ngày 10.6.1980, ông Makoto Anabuki, một nhà ngoại giao Nhật Bản đã viết thư gửi cho Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương khi đó, Ngô Duy Đông xin cho biết về nghệ nhân Bùi Thị Hý và chiếc bình gốm hoa lam đó được tạo tác tại lò gốm nào, nay thuộc xã nào của huyện Nam Sách? Màn bí mật được vén lên, dẫu rất chậm chạp.
Tới năm 2006, các nhà lịch sử Hải Dương đã biết đến cuốn gia phả dòng họ Bùi ở Quang Ánh, trong đó có ghi về nhân vật lịch sử Bùi Thị Hý. Thân phụ của bà là Bùi Đình Nghĩa. Ông nội của bà là tướng quân Bùi Quốc Hưng, một trong 18 vị anh hùng tham gia Hội thề Lũng Nhai năm 1416, khởi nghĩa chống quân xâm lược Minh. Nguyên quán làng Cống Khê, huyện Chương Đức, Hà Tây, nay là thôn Cống Thượng, xã Hồng Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, nhưng năm 1407, cụ Bùi Đình Nghĩa chuyển cư tới trang Quang Ánh, nay là thôn Quang Tiền, xã Đồng Quang, Gia Lộc, Hải Dương. Năm Canh Tý 1420, cụ Nghĩa sinh con gái đầu là Bùi Thị Hý, đến năm Quý Mão 1423 lại sinh con trai Bùi Đình Khởi. Bùi Thị Hý là một tài nữ văn hay, chữ tốt và có tài về hội họa. Bà lấy ông Đặng Sỹ, một đại gia về gốm sứ ở Chu Đậu. Bùi Thị Hý rất tài năng trong tạo tác đồ gốm. Chính bà là tác giả chiếc bình gốm hoa lam lưu giữ tại Bảo tàng Tokapi Saray (Thổ Nhĩ Kỳ). Vào năm Thái Hòa thứ 10 đời vua Lê Nhân Tông, 1452, bà cùng chồng về trang Quang Ánh, giúp em trai là Bùi Đình Khởi dựng lò gốm ở gần sông Định Đào, giao lưu với Chu Đậu, chế tác gốm sứ cống cho Hoàng triều và xuất bán cho các thương nhân Nhật Bản, Trung Quốc và một số nước phương Tây...
Tuy nhiên, những nghệ nhân tài danh của gốm Chu Đậu đâu chỉ có Bùi Thị Hý. Một tên tuổi lớn nữa là Đặng Huyền Thông. Ông tên thật là Đặng Mậu Nghiệp, tự Huyền Thông, quê ở Hùng Thắng, cách Chu Đậu 2km. Ông đã đỗ Sinh đồ (tú tài) rồi mới trở thành nghệ nhân gốm. Hùng Thăng xưa còn có tên là Cổ phường (phường của người làm gốm). Trong số 12 đồ gốm cổ lưu giữ tại Bảo tàng Hải Dương, tạo tác vào thời Mạc Mậu Hợp, chủ yếu vào các năm 1578-1590, thì có đến 10 tác phẩm của Đặng Huyền Thông. Nghệ nhân Nguyễn Xuân Vi cũng là một tác giả gốm thời Mạc danh tiếng, để lại tên trên những đồ gốm cổ quý giá…
Những thông tin trên cho thấy vào thế kỷ XVI, gốm mỹ nghệ Chu Đậu đã là hàng hóa phổ biến. Theo các nhà nghiên cứu, một tập đoàn các lò gốm ở tả ngạn sông Sặt phát triển thịnh vượng thời Hậu Lê, và những sản phẩm gốm của tập đoàn lò gốm này có nhiều ảnh hưởng từ gốm Chu Đậu. Ở Đặng Xá, một làng cùng thân với đất Chu Đậu, có họ Vương cũng nổi danh trong nghề gốm sứ thế kỷ XVI. Như vậy có thể hiểu, trung tâm gốm Chu Đậu không chỉ hạn hẹp trong thôn Chu Đậu mà còn mở rộng ảnh hưởng sang các làng, xã khác.
Nay nhìn lại Chu Đậu xưa, từ thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XVII, ta vẫn thấy trung tâm gốm sứ này là một thành công huy hoàng trong lịch sử gốm sứ nước Việt. Con tàu chở đồ gốm Chu Đậu không may bị đắm ở Cù Lao Chàm thế kỷ XV, lại là cái may có được ở cuối thế kỷ XX. Biển sâu không có binh hỏa nên đã lưu giữ được những di vật huy hoàng của gốm sứ Chu Đậu, gốm sứ cổ của Việt Nam!
Gốm Chu Đậu ngày nay kế thừa tinh hoa văn hóa cha ông để lại, với kỹ thuật phục nguyên nhiều màu sắc cổ kết hợp với những kiểu dáng men mới, hoa văn họa tiết phù hợp với thẩm mỹ đương đại. Sản phẩm gốm Chu Đậu đã đạt tiêu chí: “sáng như gương, mỏng như giấy, trong như ngọc, trắng như ngà, kêu như chuông”. |