Cần có quy định cụ thể cho lao động trên nền tảng công nghệ
Theo ĐBQH Trần Thị Diệu Thúy, trong báo cáo của Chính phủ cũng như báo cáo thẩm tra của Ủy ban Xã hội có nêu về nhóm đối tượng lao động trên nền tảng công nghệ. Hiện, nhóm này rất nhiều trong xã hội, như nhóm giao hàng công nghệ, xe ôm công nghệ, taxi công nghệ…
Mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2019 chưa đưa nhóm lao động trên nền tảng công nghệ (chia sẻ công nghệ) vào trong nhóm lao động hợp đồng/có giao kết hợp đồng, song theo đại biểu, thực chất đây cũng là một nhóm lao động (làm việc ở dạng hợp đồng liên kết chia sẻ công nghệ với đơn vị cung cấp nền tảng công nghệ).
Mặt khác, nhóm lao động này cũng bị ảnh hưởng nhiều bởi chính sách của đơn vị chia sẻ, quản lý công nghệ đó. Minh chứng là ở TP. Hồ Chí Minh đã có tình trạng hàng loạt tài xế công nghệ tắt app để ngừng việc tập thể nhằm phản đối chính sách của đơn vị chia sẻ nền tảng công nghệ.
Tuy nhiên, đối tượng này vẫn chưa được quy định rõ trong dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi). Do đó, cơ quan soạn thảo cần phải tính toán để đưa nhóm đối tượng này vào trong Luật, đại biểu Trần Thị Diệu Thúy đề xuất.
Đồng tình với ý kiến trên, ĐBQH Trần Kim Yến chỉ rõ, hiện lao động trên nền tảng công nghệ đã rất phổ biến trong xã hội. Với nhóm lao động không có mối quan hệ lao động có nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội thì họ sẽ phải tự đóng toàn bộ, trong khi ở nhóm lao động trên nền tảng công nghệ có mối quan hệ với đơn vị cung cấp nền tảng công nghệ. Thực tế, hoạt động công nghệ này cũng mang lại nhiều lợi ích cho các công ty công nghệ. Do đó, đại biểu Yến đề nghị cần có dự báo và cần phải đưa vấn đề này vào trong dự thảo Luật.
Trợ cấp thai sản 2 triệu đồng/con mới sinh là quá thấp
Theo ĐBQH Hà Phước Thắng, Phó trưởng Đoàn Chuyên trách Đoàn ĐBQH TP. Hồ Chí Minh, khoản 2 Điều 39 dự thảo Luật quy định điều kiện hưởng chế độ ốm đau là “phải nghỉ việc để chăm sóc con dưới 7 tuổi bị ốm đau và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền”. Qua lấy ý kiến của công nhân, đại biểu đề nghị nâng mức tuổi này lên dưới 16.
Đại biểu Thắng phân tích, độ tuổi trẻ em theo quy định hiện hành là dưới 16 tuổi. Bên cạnh đó, đa số công nhân đi làm đều không có ông bà chăm sóc con cái giúp. Vì thế, cần nâng độ tuổi được hưởng chế độ ốm đau trong trường hợp nghỉ việc để chăm sóc con cái lên dưới 16 tuổi, một mặt để phù hợp với quy định hiện hành, một mặt cũng là cách để chăm sóc tốt cho người lao động đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, qua đó góp phần hạn chế tình trạng rút bảo hiểm xã hội một lần.
Cùng với sửa đổi quy định trên, đại biểu Thắng đề nghị, khoản 1 Điều 41 quy định thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau, cần bổ sung thêm “tối đa 10 ngày làm việc nếu con từ đủ 7 tuổi đến dưới 16 tuổi” để tạo tính thống nhất trong quy định pháp luật.
Đối với vấn đề mức hưởng trợ cấp thai sản (Điều 94), dự thảo Luật quy định “lao động nữ khi sinh con, lao động nam có vợ sinh con được hưởng 2.000.000 đồng cho một con mới sinh”. Theo đại biểu Thắng, dự thảo Luật không nên quy định cụ thể số tiền này, bởi sẽ còn trượt giá. Thay vào đó, dự thảo Luật nên quy định theo tỷ lệ phần trăm của mức thu nhập tối thiểu vùng hoặc mức trung bình vùng.
Đồng tình với việc dự thảo Luật không nên quy định cứng mức hưởng trợ cấp thai sản là 2 triệu đồng cho một con mới sinh, ĐBQH Nguyễn Trần Phượng Trân nhấn mạnh, đây là mức “quá thấp”. Mức này đang căn cứ vào mức hiện hành Chính phủ hỗ trợ cho lao động nữ người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số, vì vậy nếu áp dụng mức trợ cấp này trên cả nước là không phù hợp, không phân biệt điều kiện kinh tế - xã hội giữa các vùng miền. Theo đại biểu, lấy căn cứ của mức lương cơ sở sẽ phù hợp hơn.
Không nên chỉ giao quyền khởi kiện cho tổ chức công đoàn
Một vấn đề được các đại biểu rất quan tâm là quyền khởi kiện người sử dụng lao động chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. Nhất trí với dự thảo Luật, bổ sung đối tượng khởi kiện là cơ quan bảo hiểm xã hội, ĐBQH Dương Văn Thăng phân tích, thực tiễn các năm qua cho thấy, người lao động, kể cả tổ chức công đoàn gặp rất nhiều khó khăn trong việc khởi kiện người sử dụng lao động nợ bảo hiểm xã hội (thực hiện các thủ tục tố tụng, thu thập chứng cứ về việc nợ bảo hiểm xã hội của người sử dụng lao động, thủ tục ủy quyền…). Do đó, không nên chỉ giao quyền khởi kiện cho tổ chức công đoàn.
“Đối với cơ quan bảo hiểm xã hội là nơi thực hiện thu, có đầy đủ hồ sơ chứng cứ để thực hiện khởi kiện. Do đó, việc để cơ quan Bảo hiểm xã hội có quyền khởi kiện là phù hợp, bảo đảm đồng thời quyền lợi của người lao động và lợi ích của Nhà nước”, đại biểu Dương Văn Thăng phát biểu.
Đại biểu Trần Thị Diệu Thúy bổ sung, thực tế công đoàn có đại diện khởi kiện nhiều vụ việc liên quan chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội, song thi hành án lại rất hạn chế vì người sử dụng lao động hoặc là trốn hoặc là không còn khả năng đóng. Mặt khác, lương của cán bộ công đoàn cơ sở – đại diện cho người lao động trong doanh nghiệp lại do chính chủ doanh nghiệp trả, nên việc quy định tổ chức công đoàn đứng ra khởi kiện chủ doanh nghiệp gặp nhiều trở ngại bởi liên quan đến vấn đề việc làm, thu nhập của cán bộ công đoàn cơ sở.
Từ phân tích trên, đại biểu Thúy đề xuất, dự thảo Luật phải có quy định rõ, chi tiết về việc tạo điều kiện cho công đoàn cấp trên được hưởng ủy quyền của người lao động để khởi kiện ra tòa mới hợp lý. Cùng với đó, đề nghị cần xem xét khởi tố hình sự, bởi hiện chưa có bất cứ trường hợp nào trốn đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động bị xử lý hình sự.
Cũng tại phiên họp Tổ 2, đại biểu đề nghị, để giảm tối đa tình trạng người sử dụng lao động chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, cần tăng cường các biện pháp về thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm liên quan. Đồng thời, dự thảo Luật cần có thêm các quy định để định rõ vai trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội nếu để trình trạng chậm đóng, trốn đóng bắt buộc gia tăng.
Liên quan vấn đề rút bảo hiểm xã hội một lần, ĐBQH Nguyễn Thiện Nhân cho rằng, những người buộc phải rút một lần là bởi họ gặp áp lực cấp bách ở thời điểm hiện tại và không còn nguồn nào khác. Không phải họ không nghĩ đến tương lai, mà bởi hoàn cảnh cụ thể buộc họ phải tìm cách tồn tại đã – đại biểu nhấn mạnh.
Do đó, theo đại biểu, cần có cơ chế kiểm tra lại xem thực tế vừa qua người lao động rút bảo hiểm xã hội một lần quy mô là bao nhiêu, có lớn hay không? Nếu người đóng 5 – 7 năm rút một lần thì quy mô không quá lớn, và tỷ lệ người rút cũng không quá lớn, đại biểu Nguyễn Thiện Nhân nhận định.
Đại biểu cũng đặt vấn đề về việc có quỹ để cho người lao động vay với lãi suất thấp nhằm giúp họ vượt qua khó khăn. Chẳng hạn, người lao động được vay 80% theo nhu cầu với một mức lãi suất hợp lý trong một khoảng thời gian nhất định sẽ vừa bảo đảm tính nhân văn vừa giúp người lao động vượt khó. Còn nếu để 2 phương án rút hay không rút sẽ có những mâu thuẫn không giải quyết được. Vấn đề là cần tính toán xem quỹ đó là bao nhiêu, có lãi suất hay không, lãi suất bao nhiêu là hợp lý.