Xem - Nghe - Đọc

Đảo của dân ngụ cư

Bộ phim Việt giành được nhiều giải thưởng quốc tế nhất trong năm sẽ có suất chiếu đặc biệt tại Galary Nguyễn Du (TP Hồ Chí Minh) vào ngày 9.1 tới, khép lại hành trình 2 năm chu du qua 12 LHP quốc tế với nhiều đề cử và 7 giải thưởng uy tín...

2 năm kiên trì chu du qua 12 Liên hoan phim quốc tế, “Đảo của dân ngụ cư” đã ngoạn mục giành tới 7 giải thưởng khu vực và quốc tế: Giải Phim hay nhất, Đạo diễn hình ảnh xuất sắc nhất, Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại LHP ASEAN - AIFFA 2017; Giải đặc biệt của Ban giám khảo tại LHP Quốc tế Á Âu - EURASIA 2017; Giải Câu chuyện Sáng tạo nhất và Giải thưởng Đặc biệt của Ban giám khảo cho Nữ diễn viên chính tại LHP châu Á - Thái Bình Dương - APFF 2018; Gtiari thưởng lớn Efebo D’Oro thuộc khuôn khổ Giải thưởng Điện ảnh Quốc tế Efebo d’Oro 2018... Chưa kể nhiều giải thưởng khác tại LHP trong nước.  Trong khi dó, nhiều khán giả trong nước vẫn chưa có dịp được xem bộ phim Việt đình đám này.


Những người đàn bà “bị nhốt”

Trước khi nói về “Đảo của dân ngụ cư”, có lẽ phải nói về nữ đạo diễn của nó trước đã. Vì bộ phim đầu tay của Hồng Ánh có một sự kế thừa, một “mối nối” chặt chẽ với các vai diễn nổi bật nhất trong sự nghiệp của nữ diễn viên này trong hơn một thập kỷ trước. Những người đàn bà, những “nàng thơ” của Hồng Ánh đều có một điểm chung: “Bị nhốt”!

 “Có lẽ ngoài Hồng Ánh, không ai dám mạo hiểm với dòng phim này ở thời điểm hiện tại. Đó vừa là một sự dũng cảm, vừa là một sự “bảo thủ” của Hồng Ánh”

Điều khác biệt giữa Hồng Ánh và các “nàng thơ” khác của điện ảnh Việt Nam, trước và sau cô, thể hiện rất rõ qua những vai diễn mà cô đóng. Các nhân vật của Hồng Ánh, trong một vệt phim kéo dài từ Đời cát (1999) đến Tâm hồn mẹ (2011), hầu hết được đạo diễn bởi cặp vợ chồng Nguyễn Thanh Vân - Phạm Nhuệ Giang - biên kịch Nguyễn Quang Lập hay sau này có thêm đạo diễn Nguyễn Vinh Sơn - đều là những người đàn bà của những năm cuối cùng thời hậu chiến mà tàn dư chiến tranh vẫn còn ảnh hưởng đến họ, hoặc những năm đầu Đổi mới với rất nhiều xáo trộn hệ tư tưởng và các giá trị xã hội, mà bản thân những người đàn bà vừa là nạn nhân vừa là nhân chứng của một thời biến động đó.

Những người đàn bà của Hồng Ánh trong hai thập niên này, hầu hết đều bị mắc kẹt trong sự lưỡng nan của tình thế làm người, làm đàn bà. Họ là những nàng thơ bị đày đọa, bị nhốt kín của cái thời cũ chưa qua, mới chưa tới. Tâm của Đời cát phải rơi vào tình thế “kiếp chồng chung” với bà vợ cả bên kia giới tuyến sau khi chiến tranh kết thúc. Nữ quân sĩ Quỳ của Người đàn bà mộng du phải vật vờ với chứng mộng du hậu chiến, nơi những xác chết của những người đàn ông trong chiến tranh vẫn không ngừng ám ảnh cô. Cô giáo Giao của Thung lũng hoang vắng (2001) bị mắc kẹt giữa bổn phận và cái khát khao bản năng nhục cảm của một người phụ nữ xuân thì. Hạnh của Trăng nơi đáy giếng (2008) mắc vào cái bẫy “Lộng giả thành chân” do chính mình tạo ra, rồi cuối cùng tự nhốt kín cuộc đời mình với một cái hình nhân trong căn nhà gỗ đóng kín...

Những người đàn bà của Hồng Ánh đặc biệt phù hợp với những cái không gian và thời gian mà họ bị mắc kẹt vào. Sự nghiệt ngã khô cằn của vùng gió Lào cát trắng trong Đời cát; Trái tim bé bỏng; cái thung lũng miền núi xa xôi hẻo lánh trong Thung lũng hoang vắng; vùng đất lễ giáo nặng nề thủ tục và gia phong của Huế trong Trăng nơi đáy giếng hay những năm tháng hậu chiến với nhiều hội chứng chấn thương tâm lý trong Người đàn bà mộng du...

Vậy những người đàn bà đó tự giải thoát bằng cách nào, hay họ chấp nhận bị “nhốt” trong cái lồng của quá khứ và cả hiện tại mà họ không thể vượt thoát? Câu trả lời: Tình dục là giải thoát! Với bản năng bị kềm tỏa, bị nhốt chặt của những người đàn bà đó thì giải phóng tình dục, giải phóng những ẩn ức là một trong những lối thoát của họ. Các bộ phim của Hồng Ánh hầu hết đều có những cảnh chăn chiếu khá bạo liệt, cô cũng không ngần ngại phơi da thịt trước ống kính của máy quay, từ Đời cát đến Thung lũng hoang vắng, từ Người đàn bà mộng du đến Tâm hồn mẹ. Đây có lẽ cũng là phần khác biệt lớn nhất giữa “nàng thơ” Hồng Ánh của thập niên 90, những năm đầu 2000 so với những nàng thơ của chiến trận và hậu chiến trong các bộ phim do Trà Giang, Như Quỳnh, Minh Châu hay Lê Vân đóng trước đó vài thập niên.

Và điều đặc biệt, cho dù các nhân vật của Hồng Ánh đều giữ vai trò trung tâm trong hầu hết các bộ phim cô đóng, cho dù họ tìm đến tình dục để giải phóng, ta vẫn thấy rõ những người đàn bà đó phải oằn mình trước những lễ nghĩa hay sức ép từ muôn đời của một xã hội bảo thủ, độc đoán và “nam trị”. Hai vai diễn đỉnh cao trong sự nghiệp của Hồng Ánh: Tâm của Đời cát và Hạnh của Trăng nơi đáy giếng đều coi chồng như những vị “thánh sống” và phục tùng tuyệt đối...

“Đảo của dân ngụ cư”, đáng lẽ ra là một bộ phim tiếp tục cái mạch “những người đàn bà bị nhốt” của Hồng Ánh trong những năm đầu 2000, sau thành công của Đời cát và Thung lũng hoang vắng. Bộ tứ Vân – Giang - Lập - Ánh đã dự định khởi quay bộ phim này trong cái mạch sáng tạo đầy bức bối và có thể tạo thành một “bộ ba” mang được không khí ngột ngạt của xã hội Việt Nam thời điểm đó. Đáng tiếc, những ẩn dụ mơ hồ từ chất liệu truyện ngắn của Đỗ Phước Tiến khiến kịch bản này của Nguyễn Quang Lập bị gác lại ở cửa kiểm duyệt rất nhiều năm. Hơn 10 năm sau, có lẽ vẫn còn ám ảnh bởi chất liệu của kịch bản, ám ảnh bởi nhân vật “nàng thơ bị nhốt” mà có lẽ đã bị vận vào người, Hồng Ánh quyết tâm thực hiện bộ phim này với tư cách đạo diễn, thay vì là đóng vai nhân vật chị Chu như dự định ban đầu.

Cần nỗ lực “cởi trói”

“Đảo của dân ngụ cư” của Đỗ Phước Tiến là một trong những truyện ngắn nổi bật đầu thập niên 1990, tạo dựng rất thành công cái không khí đặc quánh của một cộng đồng với những cá thể đơn lẻ mang những sắc tộc, tôn giáo khác nhau. Đấy là một cái cộng đồng thu nhỏ đầy ngột ngạt, bế tắc, nhiều ẩn ức, lắm tăm tối. Như lời tự sự của nhân vật dẫn chuyện (trong phim là Phước) khi nói về cái tình thế của bọn họ ở thời điểm đó, không gian đó: “Chẳng phải chị hay tôi, hay bất cứ một người nào khác, chúng mình như những chiếc máy cày chỉ làm mỗi một việc là lê lết mỏi mòn qua cánh đồng thời gian, và khát vọng hiện hữu có hơn gì một cái móc sắt han rỉ? Ngồi một chỗ như chị hay suốt đời di động như tôi thì có gì khác nhau. Bao giờ còn chưa quên vị trí xuất phát của mình, thì tôi với chị vẫn chưa bước nổi một bước, dù chỉ một bước, trong cuộc đời...”

Khát vọng hiện hữu có hơn gì một cái móc sắt han gỉ? Đó cũng là cái cảm giác mà tôi ngồi thưởng thức và... chịu đựng gần 100 phút của bộ phim này. Kịch bản của Nguyễn Quang Lập và đạo diễn của Hồng Ánh gần như trung thành với truyện ngắn và cái không khí thời đại mà Đỗ Phước Tiến tạo ra, nhưng tôi nghĩ giá như sau một khoảng thời gian dài như vậy để “ủ mình”, Hồng Ánh có thể phá cái khung của truyện gốc, phá cái góc nhìn của đàn ông để mang vào đó những dấu ấn của chính mình, một người đàn bà làm phim, thì có lẽ bộ phim đã đạt một hiệu quả cao hơn về mặt thẩm mỹ và những giá trị tư tưởng của nó. 

Tôi nghĩ giá như có một hòn đảo thật sự, một không gian bị cô lập như ta thường hình dung về bối cảnh này, và như nhan đề của bộ phim; để rồi những hành xử của nhân vật, cách bọn họ đối xử với nhau phần nào lý giải được bởi cái không gian tách rời khỏi xã hội và cộng đồng chung quanh. Không có một hòn đảo nào hiện hữu trong phim, “đảo” trong lý giải của Hồng Ánh có lẽ là cái “ốc đảo” của mỗi nhân vật, những kẻ tự nhốt mình hoặc bị nhốt vào đó, tự “biệt lập” với những kẻ còn lại. Đó cũng có thể là một cách hiểu, một cách lý giải, cho dù tôi không mấy thỏa mãn với cái “không gian” ốc đảo bên trong này.

6 nhân vật của bộ phim, không ai quá chính, không ai quá phụ. Một cái cộng đồng tứ chiếng và trôi dạt cùng tụ về đây. Bọn họ sống trong một căn nhà cổ, nhìn nhau với những đôi mắt thăm dò và đầy cảnh giác. Một ông chủ người Hoa (Hoàng Phúc) lạnh lùng và đôi khi hơi nguy hiểm không cần thiết; một bà vợ nhẫn nhục và phục tùng quá mức (Ngọc Hiệp); hai gã trai làm thuê, một Miên (Nhan Phúc Vinh), một Phước (Phạm Hồng Phước) làm việc quần quật như trâu, hừng hực sức sống; một ông đầu bếp gốc Ấn sùng đạo và cuối cùng là Chu (Ngọc Thanh Tâm), cô gái liệt con ông chủ bị nhốt chặt trên căn phòng gỗ gác mái với hai chiếc cửa sổ trời. Phim được kể lại qua góc nhìn của Phước, một gã trai trôi dạt và dừng lại ở ngôi nhà cổ này một khoảng thời gian, chứng kiến những biến cố và thảm kịch để rồi cuối cùng nó thay đổi cuộc đời của anh ta mãi mãi, và “không bao giờ còn cảm thấy hạnh phúc nữa”.

Cái tâm thế của nhân vật dẫn chuyện trong truyện ngắn của Đỗ Phước Tiến có lẽ là cái tâm thế chủ đạo của những nhân vật văn chương phim ảnh những năm đầu 90, mà như anh viết, họ như “những chiếc máy cày chỉ làm mỗi việc là lê lết mòn mỏi qua cánh đồng thời gian”. Sự bế tắc cùng quẫn biến họ thành những kẻ mang tâm lý nhược tiểu, thụ động, phục tùng mà không một dấu hiệu phản kháng nào. Trong cả truyện và phim, ta thấy Miên và Phước, hai gã trai to xác, khỏe mạnh, cho dù thay nhau lên căn phòng gác mái để hì hụi làm tình với Chu mỗi đêm, nhưng không một ai trong số họ có ý định giải thoát, hoặc ít nhất một lần đưa Chu ra khỏi căn phòng bị nhốt kín đó như khao khát của cô. Nhân vật Xiếm Hoa (Ngọc Hiệp), cũng một người đàn bà “bị nhốt”, theo một cách khác - não trạng - người hầu hạ và phục tùng chồng trong sự sợ hãi và bị đối xử thô bạo. Chu, cô con gái bị nhốt suốt cả cuộc đời mình vì đôi chân bị liệt, tìm niềm vui bên những con vật bằng đất nặn vô tri, tìm giải thoát khỏi sự bế tắc và bất lực của mình bằng tình dục, như cách Phước nhìn ra được khát vọng của cô mà Đỗ Phước Tiến viết trong truyện: “Lúc vùi đầu vào bộ ngực mềm ấm của chị, tôi cay đắng nhận ra rằng vang sâu trong cái sinh vật dị dạng đang rệu rã kia là những cơn bùng nổ liên tục của khát vọng làm người, của những đam mê hết sức chân thành, trong trắng. Linh hồn của mỗi người, nếu quả có nó, thật ra không ăn nhập gì với các xác phàm mà nó ẩn náu cả...”

Cái không khí tù túng ngột ngạt của căn nhà cổ, nỗi sợ hãi và nghi kỵ bao trùm, khiến tất cả các nhân vật trong bộ phim không có một ai được giải thoát về mặt tâm hồn. Bọn họ như sống trong vũng lầy của sự sợ hãi và đánh bất khả năng phản kháng; như hình ảnh những chú dê trước khi bị làm thịt bị Miên treo lon sắt vào đuôi và đuổi đánh trong đêm khiến chúng sợ hãi đến mức toát mồ hôi và theo đó mà bay hết mùi hôi đặc trưng của loài dê. Đây có lẽ là một chi tiết đặc sắc được thể hiện rất tốt trong phim.

“Đảo của dân ngụ cư” có khá nhiều điểm sáng của một bộ phim đầu tay và của một đạo diễn nữ. Như đã nói, cho dù Hồng Ánh chưa thực sự vượt thoát được cái khung “nam trị” trong văn chương điện ảnh Việt bị đè nặng quá lâu, ta vẫn cảm nhận được vẻ đẹp nữ tính của cô qua chất thơ của những khung hình, qua không khí đậm mùi nhục cảm với những pha giường chiếu bạo liệt, như cách cô từng đóng trong các bộ phim trước đây.

Đó cũng là lý do mà tôi dẫn từ đầu, bộ phim này là cái mối nối dài những nhân vật “nàng thơ” bị nhốt của Hồng Ánh trong hơn một thập kỷ trước. Có lẽ ngoài Hồng Ánh, không ai dám mạo hiểm với dòng phim này ở thời điểm hiện tại. Đó vừa là một sự dũng cảm, vừa là một sự “bảo thủ” của Hồng Ánh.

Nhưng với bộ phim này, tôi tin chắc Hồng Ánh sẽ còn tiếp tục với nghiệp đạo diễn. Chỉ mong cô sẽ vượt thoát khỏi được những hòn đảo và những nàng thơ cần được giải phóng!

Văn hóa

Cao cả đức hy sinh - Mạch nguồn dựng xây đất nước
Văn hóa - Thể thao

Cao cả đức hy sinh - Mạch nguồn dựng xây đất nước

Đại thắng mùa Xuân 1975 đã khắc ghi những trang sử hào hùng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Tinh thần hy sinh cao cả ấy - vì nước quên thân, vì dân quên mình - đã trở thành mạch nguồn bất tận, hun đúc niềm tin và khát vọng vươn mình của dân tộc ta. Hôm nay, trong hào khí tháng Tư lịch sử, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang tiếp nối mạch nguồn ấy bằng cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước - dám hy sinh lợi ích cá nhân vì một Việt Nam phồn vinh và thịnh vượng.

"Binh chủng đặc biệt" lay động cả non sông
Văn hóa - Thể thao

"Binh chủng đặc biệt" lay động cả non sông

Trên thế giới, hiếm có dân tộc nào sở hữu thứ "vũ khí" bảo vệ Tổ quốc độc đáo như vậy. "Vũ khí" ấy không phải gươm giáo, đạn bom, mà là những vần thơ thấm đẫm máu và hoa, là khúc ca hùng tráng át tiếng bom đạn, là thước phim lay động trái tim, là nét vẽ kiên cường trên trang giấy… Tất cả đã tạo nên sức mạnh tinh thần phi thường, đủ sức lấn át mọi vũ khí, hun đúc ý chí, tôi luyện quyết tâm đánh thắng kẻ thù, giành lại tự do cho Tổ quốc.

Vòng tay lớn mãi để nối sơn hà...
Văn hóa - Thể thao

Vòng tay lớn mãi để nối sơn hà...

Thời gian có làm phai mờ dấu vết chiến tranh nhưng ký ức hào hùng vẫn in đậm trong trí nhớ những người có mặt trong thời khắc lịch sử 50 năm trước. Nhắc nhớ câu chuyện ấy tiếp thêm ngọn lửa truyền cảm hứng, biến niềm tin và tự hào thành động lực dựng xây Tổ quốc hôm nay.

“Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” - Khát vọng và niềm tin
Văn hóa - Thể thao

“Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” - Khát vọng và niềm tin

Bộ phim “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” chứa đựng bề dày lịch sử đất nước và con người Việt Nam một thời; số phận của các nhân vật mang chiều rộng về không gian, chiều dài về thời gian, gắn bó với số phận của dân tộc trong mọi biến cố lớn lao tại nơi giới tuyến chia cắt hai miền Nam - Bắc đầy khốc liệt.

50 năm thống nhất đất nước, vẹn nguyên ký ức ngày giải phóng
Văn hóa

Vẹn nguyên ký ức ngày giải phóng

50 năm đã trôi qua nhưng ký ức về ngày nối non sông liền một dải vẫn vẹn nguyên trong tâm trí những người đã chiến đấu vì đất nước, trong đó có Đại tá Trương Quang Siều, nguyên Phó Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.

Chính thức ra mắt sách “Con đường tương lai”
Văn hóa

Chính thức ra mắt sách “Con đường tương lai”

Ngày 29.4, tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, Hội Nhà văn Hà Nội phối hợp với Viện Khoa học Giáo dục và Môi trường cùng một số doanh nghiệp tổ chức lễ ra mắt cuốn sách “Con đường tương lai” - Tập 1 của nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn.

Nhân dân Sài Gòn - Gia Định kéo về Dinh Độc Lập chào mừng Quân giải phóng
Văn hóa - Thể thao

Nghệ thuật tạo và chớp thời cơ

Nghệ thuật tạo thời cơ, chớp thời cơ là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975; thay vì 2 năm như kế hoạch đã đề ra, chúng ta chỉ mất 55 ngày đêm thu non sông về một mối.

Ký họa sống động những ngày tiến về Sài Gòn
Văn hóa - Thể thao

Ký họa sống động những ngày tiến về Sài Gòn

Chứng kiến sự gian khổ của bộ đội ta trong những ngày kháng chiến và cả niềm hân hoan của ngày thống nhất, ông Trần Mạnh Tuấn, một họa sĩ không chuyên, nguyên phóng viên báo Pháp luật Việt Nam, đã thực hiện các bức ký họa bằng bút sắt sinh động ghi lại lịch sử không thể nào quên của dân tộc.

“Cho con là người Việt Nam” - Khi âm nhạc cất lên niềm tự hào dân tộc
Văn hóa

“Cho con là người Việt Nam” - Khi âm nhạc cất lên niềm tự hào dân tộc

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30.4.1975 - 30.4.2025) và 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2.9.1945 - 2.9.2025), MV "Cho con là người Việt Nam" của Tùng Dương chính thức được ra mắt như một lời tri ân sâu sắc tới lịch sử hào hùng của dân tộc và gửi gắm khát vọng vươn lên của thế hệ trẻ Việt Nam.