Cắt giảm thành phần hồ sơlĩnh vực hàng hải
Bộ Giao thông Vận tải đang lấy ý kiến góp ý vào dự thảo phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ năm 2024.
Với lĩnh vực hàng hải, dự thảo đề xuất đơn giản hóa thủ tục hành chính theo hướng cắt giảm thành phần hồ sơ yêu cầu nộp chứng minh nhân dân/căn cước công dân, thay thế các trường thông tin có thể khai thác được trong dữ liệu quốc gia về dân cư. Theo Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), đề xuất này là phù hợp và sẽ tạo thuận lợi cho các đối tượng thực hiện thủ tục.
Tuy nhiên, VCCI đề xuất xem xét đơn giản hóa thêm một số điểm. Cụ thể là, bỏ thành phần hồ sơ là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trong các thủ tục quy định tại Nghị định số 171/2016/NĐ-CP về đăng ký, xóa đăng ký và mua, bán, đóng mới tàu biển như: đặt tên tàu biển; đăng ký tàu biển không thời hạn/có thời hạn; đăng ký tàu biển đang đóng; đăng ký tàu biển loại nhỏ. Bởi lẽ, những thông tin này có thể tra cứu trong hệ thống thông tin về đăng ký doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, VCCI đề xuất lồng ghép thủ tục đặt tên tàu biển với thủ tục đăng ký tàu biển. Lý giải đề xuất này, VCCI cho biết, theo Nghị định số 171/2016/NĐ-CP, thủ tục đặt tên tàu biển đang được thiết kế độc lập với thủ tục đăng ký tàu biển. Trong mẫu tờ khai đăng ký tàu biển, tàu biển đã có tên. Như vậy, thủ tục đặt tên tàu biển sẽ phải thực hiện trước thủ tục đăng ký tàu biển. Trong khi đó, Bộ luật Hàng hải quy định về các nguyên tắc đặt tên tàu biển Việt Nam tại Điều 21, không quy định chủ tàu phải có sự chấp thuận về việc đặt tên tàu biển trước khi thực hiện đăng ký tàu biển. Vì vậy, để tạo thuận lợi về thủ tục hành chính, nên lồng ghép thủ tục đặt tên tàu biển với thủ tục đăng ký tàu biển. Khi xem xét về các điều kiện đăng ký tàu biển, cơ quan có thẩm quyền có thể xem xét tên gọi của tàu biển cho phù hợp với Điều 21 Bộ luật Hàng hải hay không.
Giảm số ngày giải quyết thủ tục
Trong lĩnh vực đường thủy nội địa, dự thảo đã có nhiều đề xuất nhằm tạo thuận lợi cho các đối tượng thực hiện thủ tục. Ví dụ, giảm số lượng hồ sơ từ 3 bộ xuống còn 2 bộ đối với các bộ hồ sơ trong các thủ tục: phê duyệt kế hoạch an ninh và cấp giấy chứng nhận phù hợp an ninh cảng thủy nội địa tiếp nhận phương tiện thủy nước ngoài; xác nhận hàng năm giấy chứng nhận phù hợp an ninh cảng thủy nội địa; phê duyệt đánh giá an ninh cảng thủy nội địa tiếp nhận phương tiện thủy nước ngoài.
Cùng với đó, dự thảo quy định giảm số ngày giải quyết thủ tục từ 5 ngày làm việc xuống còn 3 ngày làm việc đối với thủ tục đổi tên cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu; gia hạn hoạt động cảng, bến thủy nội địa.
Bên cạnh đó, VCCI đề nghị Ban soạn thảo đánh giá lại tính cần thiết phải quy định thời hạn của giấy chứng nhận phù hợp an ninh cảng thủy nội địa tiếp nhận phương tiện thủy nước ngoài. Bởi theo Nghị định số 08/2021/NĐ-CP về quản lý hoạt động đường thủy nội địa, người khai thác cảng phải lập hồ sơ đề nghị phê duyệt kế hoạch an ninh và cấp giấy chứng nhận phù hợp an ninh cảng thủy nội địa tiếp nhận phương tiện thủy nước ngoài. Giấy chứng nhận này có thời hạn 5 năm và hàng năm phải được xác nhận phù hợp an ninh cảng thủy nội địa.
Với cơ chế quản lý như trên, việc quy định thời hạn của giấy chứng nhận phù hợp an ninh cảng thủy nội địa tiếp nhận phương tiện thủy nước ngoài dường như chưa thật cần thiết, bởi hàng năm cơ quan có thẩm quyền vẫn phải đánh giá xác nhận phù hợp an ninh cảng nội địa. Ngoài ra, nếu hết thời hạn 5 năm, người khai thác cảng sẽ phải xin cấp lại hay gia hạn giấy chứng nhận? Thủ tục như thế nào? Nghị định số 08/2021/NĐ-CP của Chính phủ chưa quy định rõ về vấn đề này. Ban soạn thảo đánh giá lại tính cần thiết phải quy định thời hạn của giấy chứng nhận và cân nhắc bỏ thời hạn này, VCCI đề xuất.