Theo đó, Dự thảo khung đề án chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp xác định, chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp là quá trình tích hợp và áp dụng các công nghệ kỹ thuật số như dữ liệu lớn, điện toán đám mây, vạn vật kết nối, trí tuệ nhân tạo... vào các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Tận dụng các công nghệ số thay đổi tích cực cách thức quản lý, làm việc của cá nhân, đơn vị trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp cũng như cung cấp điều kiện giáo dục nghề nghiệp thuận tiện, nhanh chóng, hiệu quả trên nền tảng số.
Trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, tiến bộ công nghệ sẽ tạo ra sự kết nối giữa thế giới thực, thế giới số và thế giới sinh vật hữu cơ,... sản sinh những công cụ sản xuất hội tụ giữa thế giới thực và thế giới số. Những thành phần điển hình của nền công nghiệp cách mạng lần thứ 4 bao gồm công nghệ số (là các công nghệ xử lý dữ liệu lớn) như Cloud Computing, Big Data, Internet of thing, và công nghệ thông minh (các công nghệ cho phép máy tính, thiết bị tự động hóa dựa trên dữ liệu lớn) như trí tuệ nhân tạo (AI).
Những thay đổi mang tính cách mạng về khoa học, đột phá của công nghệ số dẫn tới xu hướng phát triển và yêu cầu thay đổi mạnh mẽ về cơ cấu, mô hình kinh tế, xã hội quốc gia cũng như hệ thống quản lý của các ngành, lĩnh vực trong đó có hoạt động giáo dục nghề nghiệp như yêu cầu về đổi mới công nghệ; đẩy mạnh khoa học phân tích và quản lý, xử lý dữ liệu lớn tạo ra tri thức mới, hỗ trợ việc đưa ra quyết định nhanh chóng, chính xác, hiệu quả trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp.
Quá trình chuyển đổi số sẽ tác động có tính thay đổi cốt lõi đến hoạt động giáo dục nghề nghiệp theo nhiều góc độ. Từ thực tế này, dự thảo khung đề án chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp đặt ra tầm nhìn đến năm 2030 toàn bộ hệ thống giáo dục nghề nghiệp như một quốc gia thu nhỏ, toàn bộ hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo viên, học viên sẽ chuyển lên môi trường số. Đến năm 2030, hoạt động giáo dục nghề nghiệp Việt Nam đạt trình độ các nước Asean 4. Cụ thể, đến năm 2030, 100% dịch vụ công liên quan đến hoạt động giáo dục nghề nghiệp là dịch vụ trực tuyến mức độ 4, được tích hợp lên Cổng Dịch vụ công quốc gia, được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động. Khoảng 600 cơ sở giáo dục nghề nghiệp (chiếm 30%) phải thực hiện chuyển đổi số hoàn toàn. Đặc biệt, 100% các trường nghề triển khai nền tảng dạy nghề trực tuyến.
Để đạt được mục tiêu này, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp TS. Phạm Vũ Quốc Bình cho rằng, giáo dục nghề nghiệp phải xây dựng được hệ thống dữ liệu lớn toàn ngành, tạo được các nền tảng công nghệ, xây dựng hành lang pháp lý phù hợp và đặc biệt phải chuẩn bị nhân lực phục vụ cho quá trình chuyển đổi số. Đáp ứng yêu cầu phát triển, hội nhập quốc tế, chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục phải “thần tốc” nhưng chắc chắn và bền vững. Xây dựng được những nền tảng chắc chắn trên một hệ thống điều hành chung.
Tuy nhiên, ông Phạm Vũ Quốc Bình cũng cho rằng, quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp phải gắn liền với doanh nghiệp. “Doanh nghiệp chính là đối tượng sử dụng lao động. Do vậy, trong quá trình chuyển đổi số, chính doanh nghiệp sẽ đưa ra yêu cầu từ công nghệ, kỹ năng đến chất lượng nguồn nhân lực” - TS. Phạm Vũ Quốc Bình nhấn mạnh.
Hội thảo là tiền đề để hoàn thiện khung đề án chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp, từ đó xây dựng đề án chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp để trình Chính phủ ban hành trong năm 2021.