Nghiêm cấm công nghệ sử dụng cho hoạt động lừa đảo
Luật Phòng, chống gian lận viễn thông và lừa đảo trực tuyến cấm các cá nhân hoặc tổ chức “sản xuất, mua, bán, cung cấp hoặc sử dụng trái pháp luật” bất kỳ thiết bị hoặc phần mềm nào được sử dụng để thực hiện hành vi gian lận viễn thông và trực tuyến, chẳng hạn như bộ chuyển đổi SIM và công nghệ cho phép giả mạo ID người gọi, tự động chuyển đổi tài khoản, các hệ thống, nền tảng gửi, nhận mã xác minh qua SMS hàng loạt (Điều 14). Dự thảo trước đây của Luật chỉ hạn chế các công nghệ “được sử dụng độc quyền hoặc chủ yếu” để lừa đảo, nhưng phiên bản cuối cùng đã dỡ bỏ hạn chế này.
Đưa ra chế tài đối với hành vi tiếp tay
Ngoài ra, Luật nghiêm cấm mọi hành vi “hỗ trợ hoặc tiếp tay” cho hành vi gian lận viễn thông và trực tuyến, bao gồm bán hoặc cung cấp thông tin cá nhân, giúp những kẻ lừa đảo rửa tiền, bao gồm cả thông qua tiền điện tử (Điều 25). Nhận thấy rằng những kẻ lừa đảo phụ thuộc vào việc sử dụng thẻ SIM, tài khoản ngân hàng và các tài khoản thanh toán khác hoặc tài khoản internet liên kết với bên thứ ba, Luật cấm một loạt hoạt động liên quan đến các thẻ và tài khoản đó, cho dù chúng có được sử dụng để lừa đảo hay không, chẳng hạn như giao dịch bất hợp pháp, hỗ trợ xác minh tên thật và mở thẻ, mở tài khoản bằng cách mạo danh người khác (Điều 31, khoản 1).
Việc vi phạm tất cả những điều cấm này sẽ dẫn đến việc bị tịch thu bất kỳ khoản lợi bất hợp pháp nào, bị phạt tiền và khi vi phạm nghiêm trọng thì bị giam giữ hành chính lên đến 15 ngày (Điều 42, 44). Những người vi phạm các quy tắc đăng ký tên thật (ngoài những người bị kết tội lừa đảo viễn thông và trực tuyến hoặc các tội phạm liên quan) sẽ phải đối mặt với các hậu quả pháp lý bổ sung: chức năng của thẻ hoặc tài khoản của họ có thể bị hạn chế và họ có thể bị cấm thực hiện các giao dịch hoặc giao dịch từ xa (Điều 31, khoản 2).
Quy định này nhằm bổ sung cho quy định mới trong Luật Hình sự, theo đó kể từ năm 2015, hành vi cố ý cung cấp hỗ trợ kỹ thuật hoặc vật chất cho tội phạm trực tuyến đã bị hình sự hóa. Bất kỳ đối tượng nào cung cấp quyền truy cập internet, không gian máy chủ, dịch vụ lưu trữ web hoặc dịch vụ liên lạc khi biết rằng những dịch vụ này sẽ được sử dụng để phạm tội, có thể bị phạt tới 3 năm tù. Tương tự, đối tượng cung cấp trợ giúp vật chất như đặt quảng cáo hoặc thanh toán hóa đơn khi biết rằng hành vi đó đó đang tạo điều kiện cho tội phạm, có thể cấu thành hành vi phạm tội hình sự với mức phạt tù lên đến 3 năm.
Ngăn ngừa điểm nóng lừa đảo ở nước ngoài
Cuối cùng, Luật đưa ra một số điều khoản ngăn chặn các hoạt động lừa đảo ở nước ngoài nhằm vào người dân trong nước. Theo đó, Luật cũng khẳng định quyền tài phán ngoài lãnh thổ đối với các tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thực hiện hành vi gian lận viễn thông và trực tuyến nhắm vào lãnh thổ Trung Quốc đại lục hoặc cung cấp hỗ trợ cho hành vi gian lận đó (Điều 3).
Để ngăn chặn những đối tượng trốn thoát, cơ quan quản lý nhập cư có thể áp dụng lệnh cấm xuất cảnh đối với những người đi du lịch đến các khu vực có điểm nóng bị nghi ngờ có liên quan đến gian lận viễn thông và trực tuyến ở nước ngoài (Điều 36, khoản 1). Ngoài ra, cảnh sát có thể cấm những người bị kết tội lừa đảo viễn thông và trực tuyến rời khỏi đất nước trong thời gian từ 6 tháng đến 3 năm sau khi họ chấp hành xong bản án (Điều 36, khoản 2).
Bộ Công an và Bộ Ngoại giao được chỉ đạo tăng cường hợp tác với các cơ quan thực thi pháp luật nước ngoài và quốc tế trong việc trao đổi thông tin, điều tra, bắt giữ nghi phạm và thu hồi số tiền bị đánh cắp (Điều 37).