Hoàn thiện thêm quy định về tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng
Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ Năm đã hoàn thiện thêm quy định về tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng, tiếp tục tạo hành lang pháp lý xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém, xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm, khắc phục những vướng mắc, bất cập của Luật hiện hành.
Đánh giá về các điểm mới trong Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Đình Việt cho rằng, các quy định tại Luật sẽ giúp lành mạnh hóa hoạt động của tổ chức tín dụng thông qua các yêu cầu cao về quản trị, điều hành tiệm cận thông lệ quốc tế, các quy định nhằm ngăn ngừa, hạn chế thao túng, chi phối tổ chức tín dụng, tăng cường tính tự chịu trách nhiệm của tổ chức tín dụng, đáp ứng yêu cầu cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng theo chủ trương của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội. Đồng thời, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng phát triển đa dạng, hiện đại các hoạt động, nâng cao khả năng cạnh tranh trong khu vực và quốc tế.
PGS.TS Nguyễn Hữu Huân - Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh đánh giá cao việc Luật đưa ra giới hạn trần sở hữu mới tại một ngân hàng. Theo đó, một cổ đông là cá nhân không được sở hữu cổ phần vượt quá 5% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng; một cổ đông là tổ chức không được sở hữu cổ phần vượt quá 10% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng; cổ đông và người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu cổ phần vượt quá 15% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng. Cổ đông lớn của một tổ chức tín dụng và người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu cổ phần từ 5% vốn điều lệ trở lên của một tổ chức tín dụng khác (Điều 63).
Đồng thời, Luật cũng điều chỉnh phạm vi các đối tượng được xem là người có liên quan của một chủ thể (khoản 24, Điều 2), qua đó để kiểm soát các quan hệ liên quan đến huyết thống, yếu tố gia đình, sự liên kết về quyền sở hữu tại các doanh nghiệp… góp phần thắt chặt quản lý việc sở hữu cổ phần tại tổ chức tín dụng.
Bên cạnh việc giảm tỷ lệ sở hữu, Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) cũng yêu cầu các cổ đông sở hữu từ 1% vốn trở lên phải công bố thông tin. Quy định này tạo thuận lợi cho việc xác định nhóm đối tượng sở hữu chéo khi họ có hành động đồng loạt mua hoặc bán cổ phần.
Cùng với đó, PGS.TS Nguyễn Hữu Huân nhấn mạnh, các quy định về giảm giới hạn cho vay đối với một khách hàng và nhóm khách hàng liên quan tại Luật sẽ buộc các ngân hàng phải giảm dần tỷ lệ theo quy định và tìm kiếm các đối tượng khách hàng khác nhằm giảm thiểu rủi ro tập trung. “Điều này cũng góp phần làm giảm rủi ro sở hữu chéo cũng như tăng tính an toàn cho hệ thống. Đây là quy định rất cần thiết. Nếu dùng thủ thuật lập ra nhiều công ty hơn để vay vốn, tương tự như trường hợp của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB), để "lách" quy định này thì chi phí sở hữu chéo sẽ cao hơn và quy trình phức tạp hơn”, PGS. TS Nguyễn Hữu Huân nói.
Cần gắn với trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu
Các quy định tại Luật về tỷ lệ sở hữu cổ phần; mở rộng phạm vi các đối tượng được xem là người có liên quan của một chủ thể; về công bố thông tin… sẽ giúp tăng tính minh bạch và tăng khả năng giám sát đại chúng, góp phần làm giảm tình trạng sở hữu chéo, thao túng tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, TS. Cấn Văn Lực, Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV cho rằng, hiệu lực của các quy định này phụ thuộc nhiều vào khâu thực thi, nhất là trong tuân thủ công bố thông tin một cách thực chất, minh bạch và kịp thời.
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Huân, khó có thể loại bỏ hoàn toàn nguy cơ sở hữu chéo trong các tổ chức tín dụng, vì hành vi này được thực hiện rất tinh vi và phức tạp. Do vậy, để hạn chế sở hữu chéo tại các tổ chức tín dụng sẽ phải có sự phối hợp đồng bộ các giải pháp khác, đặc biệt là nâng cao năng lực thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước, cũng như nâng cao ý thức và trách nhiệm của những người thực thi pháp luật. Thực hiện các giải pháp này sẽ giúp tránh xảy ra thông đồng giữa các cán bộ thực thi và giám sát hoạt động ngân hàng thương mại của Ngân hàng Nhà nước với các ngân hàng thương mại, dẫn đến không thể phát hiện sớm các sai phạm, có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho hệ thống cũng như nền kinh tế.
Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng cho rằng, cần áp dụng các công nghệ tiên tiến hiện tại như trí tuệ nhân tạo, blockchain để có thể liên thông dữ liệu của ngân hàng thương mại với Ngân hàng Nhà nước, từ đó có thể tự động phát hiện hoặc hệ thống sẽ phát ra các cảnh báo về các giao dịch đáng ngờ, giúp cho việc phát hiện các sai phạm được diễn ra nhanh hơn và tự động hóa, loại bỏ dần yếu tố con người. Như vậy sẽ giúp việc điều hành của Ngân hàng Nhà nước được hiệu quả hơn và hạn chế các tình trạng thông đồng, hối lộ để che mắt các sai phạm như đã từng xảy ra.
Để các quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) đi vào cuộc sống, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Đình Việt cho rằng, việc triển khai và giám sát thực thi Luật có vai trò quan trọng. Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành liên quan cần khẩn trương xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn bảo đảm có hiệu lực đồng thời với Luật, cũng như rõ ràng, đầy đủ, chặt chẽ, tạo thuận lợi cho quá trình triển khai.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế nhấn mạnh tới sự cần thiết tăng cường hiệu quả thực thi của Luật gắn với trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu. Các cơ quan thanh tra, kiểm tra cần tăng cường hơn nữa tính hiệu quả và hiện đại hóa trong các quy trình nội bộ, nâng cao năng lực và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ thanh tra. Triển khai thực hiện các biện pháp này sẽ giúp kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh hiện tượng cố ý “lách luật” của các cá nhân, tổ chức.