
Theo ý của ông Hải thì nên sử dụng nhiều loại ngoại tệ khác nhau phục vụ cho hoạt động nhập khẩu. Chính xác hơn, có lẽ ông muốn nói rằng nhập khẩu hàng của nước nào thì nên thanh toán bằng đồng tiền bản tệ nước đó, tránh phải dùng đến USD, vừa tốn thêm chi phí cho doanh nghiệp nhập khẩu, vừa tạo áp lực cho hệ thống ngân hàng Việt Nam phải chuẩn bị đủ USD để đáp ứng nhu cầu thanh toán của nhà nhập khẩu Việt Nam mà vì thế tạo ra áp lực lên tỷ giá VND/USD. Ý kiến này của ông Hải không hề ổn cả về thực tế lẫn lý thuyết, với một số lý do nêu dưới đây.
Thứ nhất, tại sao đồng USD lại là đồng tiền được lựa chọn nhiều nhất cho các giao dịch thanh toán quốc tế không chỉ ở Việt Nam mà trên cả thế giới? Một đồng tiền nào đó được chọn làm phương tiện thanh toán phải đáp ứng được mấy tiêu chuẩn cơ bản như là một đồng tiền mạnh, ổn định, không bị những rủi ro như mất khả năng thanh toán, phá giá hay lên giá đột xuất với biên độ lớn, (được phép) chuyển đổi và thanh toán dễ dàng ở mọi nơi, và là đồng tiền của nước chiếm tỷ trọng lớn trong thương mại thế giới v.v... Vì những lý do này, thường chỉ có đồng tiền của những nước đã phát triển và có nền kinh tế lớn trong top 5 của thế giới như Mỹ, Nhật, Đức, Anh, Pháp, và gần đây hơn là EU, mới được sử dụng, trong số đó lại phổ biến nhất là USD của Mỹ vì Mỹ là nước có tỷ trọng thương mại lớn nhất trên thế giới.
Nếu so sánh với USD và những ngoại tệ mạnh nêu trên thì đương nhiên những ngoại tệ khác có mức độ rủi ro lớn hơn và kém thông dụng, khó lưu hành hơn nhiều. Vì thế, đứng ở góc độ nhà xuất khẩu, đương nhiên người ta không dại gì muốn được thanh toán bằng đồng tiền “thiểu số” nào khác, chẳng hạn VND, Ringgit (Malaysia), Peso (Philippines) hay Rupi (Indonesia) v.v... cho dù họ xuất khẩu sang chính những nước đó, đặc biệt khi những đồng tiền này có lịch sử thăng trầm lớn. Ngược lại, nhà nhập khẩu thì muốn được “đẩy” cái rủi ro hối đoái này về phía nhà xuất khẩu bằng cách đòi thanh toán bằng đồng bản tệ của mình. Đấy là còn chưa kể đến nhiều trong số những đồng tiền “thiểu số” trên còn không có tính chuyển đổi quốc tế, nghĩa là không thể, không được phép tự do mua bán trên thị trường ngoại tệ trong nước và hải ngoại nên nếu có muốn dùng để thanh toán thì cũng không được (phép). Như vậy, đề xuất nói trên của ông Hải là đề xuất “nửa vời” vì mới chỉ đứng ở góc độ của nhà nhập khẩu Việt Nam.
Thứ hai, cho dù nhà nhập khẩu Việt Nam có thể và được đối tác chấp nhận cho thanh toán bằng nội tệ của họ (ví dụ như đôla Singapore – SGD) thì nhà nhập khẩu Việt Nam vẫn phải yêu cầu hệ thống ngân hàng thu xếp được khoản SGD cần thiết để trả cho đối tác, vì nhà nhập khẩu Việt Nam thông thường không có nguồn thu bằng SGD để tự cân đối được khoản nhập khẩu đó. Đến lượt hệ thống ngân hàng Việt Nam, nếu không có đủ dự trữ SGD trong tay thì họ lại phải “xoay” bằng cách bán một ngoại tệ khác đang nắm giữ (mà phổ biến nhất là USD) trên thị trường ngoại hối (trong nước và quốc tế) để mua được số SGD mà khách hàng nhập khẩu Việt Nam yêu cầu. Rốt cuộc thì “Mọi ngả đường đều dẫn đến Rome”, USD vẫn cứ là đồng tiền thanh toán cuối cùng được cần đến và áp lực cầu USD không vì thế mà giảm đi cho dù đồng tiền thanh toán ban đầu là SGD.
Sẽ có người vặn lại rằng nếu hệ thống ngân hàng Việt Nam sử dụng Yen, Euro, đôla Canada, đôla Úc v.v... để mua SGD thì sẽ không gây ra sự khan hiếm USD ở Việt Nam như chỉ ra ở trên. Nhưng vấn đề lại là ở chỗ liệu ngân hàng có dự trữ đủ những ngoại tệ này để mua SGD không? Việc ngân hàng nắm dự trữ ngoại tệ nào, bao nhiêu phụ thuộc không chỉ vào phía cầu của khách hàng mà còn cả phía cung chủ yếu là từ những doanh nghiệp xuất khẩu hoặc từ những nguồn khác (có quy mô nhỏ hơn, ví dụ từ khách du lịch, vay vốn v.v...). Mà các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam (và xin lặp lại rằng không chỉ có doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam!) lại chỉ thích thu về bằng USD với những lý do nêu ở phần đầu. Kết cục là ngân hàng không thể có đủ ngoại tệ thứ 3 để mua SGD, để rồi lại phải dùng USD dự trữ của mình để mua SGD. Ngân hàng cũng có thể dùng VND để mua USD trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoặc mua từ doanh nghiệp và dân cư. Dù cách nào thì cầu USD vẫn tăng lên, tạo áp lực lên tỷ giá.
Lại cũng sẽ có người vặn rằng vậy tại sao ngân hàng không dùng VND để mua SGD trực tiếp trên thị trường liên ngân hàng hoặc trên thị trường phi ngân hàng trong nước? Điều này tất nhiên vẫn thực hiện được nhưng rốt cuộc vẫn vấp phải câu hỏi là ai là người cung cấp SGD cuối cùng? Nếu nhà xuất khẩu Việt Nam không thích nhận SGD và những nguồn cung SGD khác rất hạn chế thì thị trường SGD cuối cùng cũng vẫn bị “cháy chợ” và ngân hàng không thể có đủ SGD để đáp ứng nhu cầu nhà nhập khẩu, hoặc nếu có đủ thì cũng phải trả giá cao hơn vì cung khan hiếm.
Thứ ba, và liên quan đến lý do thứ hai, là nếu ngân hàng dùng một ngoại tệ khác (kể cả USD) để mua SGD thì sẽ phát sinh chi phí giao dịch chuyển đổi đồng tiền này và sẽ đổ lên đầu nhà nhập khẩu thanh toán bằng SGD. Đây chính là điều mà ông Hải không tính đến khi khuyến nghị dùng các ngoại tệ khác để thanh toán nhập khẩu.
Đến đây, vấn đề có lẽ chuyển sang một khía cạnh mới và khái quá hơn là nếu muốn thực hiện được việc thanh toán cho nhập khẩu từ nước nào bằng bản tệ của nước đó thì phải có điều kiện gì? Ngoài những vấn đề về tính rủi ro và thanh khoản cũng như sự đồng thuận của nhà xuất khẩu nước ngoài nêu ở trên, điều kiện tiên quyết là phải có nguồn cung ngoại tệ đó ổn định, đủ đáp ứng nhu cầu thanh toán bằng ngoại tệ đó. Nhưng để làm được điều này thì phải có thêm điều kiện là nhà xuất khẩu Việt Nam chấp nhận thanh toán bằng ngoại tệ đó và bán lại cho ngân hàng, và nguồn thu từ xuất khẩu bằng ngoại tệ đó phải tương đương với nguồn chi cho nhập khẩu bằng ngoại tệ đó. Để đơn giản hóa, ta giới hạn vấn đề ở chỗ Việt Nam phải có cân bằng thương mại (tức là thu từ xuất khẩu bằng với chi cho nhập khẩu) với nước đối tác có đồng tiền được dùng đến thì cung và cầu bản tệ của đối tác này mới ở vị thế cân bằng và mỗi khi được chấp thuận thanh toán nhập khẩu thì việc mua loại ngoại tệ này (bằng VND) diễn ra bình thường và dễ dàng, góp phần giảm sự phụ thuộc vào USD như theo ý ông Hải.
Tuy thế, không khó để thấy rằng điều kiện cân bằng trên là hầu như không bao giờ tồn tại, và tình trạng thiếu hụt một ngoại tệ nào đó và dư thừa một ngoại tệ khác trong hệ thống ngân hàng là chuyện phổ biến. Như vậy, rốt cuộc vai trò của USD như một phương tiện thanh toán, chuyển đổi cuối cùng trong thanh toán quốc tế nói chung khó có thể thay đổi, ít nhất là trong tương lai gần.
Tóm lại, nói nôm na hơn, theo cách của ông Hải, thì “ngoại tệ vẫn thường là USD!”