Chính phủ vừa có Tờ trình số 179/TTr-CP gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tình hình thực hiện các chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội.
Báo cáo cho biết, đến cuối tháng 3.2023, số tiền hỗ trợ lãi suất cho các khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh chỉ đạt khoảng 327 tỷ đồng, tương đương 0,82% nguồn lực bố trí để thực hiện chính sách (40.000 tỷ đồng). Doanh số hỗ trợ lãi suất đạt gần 91.000 tỷ đồng, dư nợ hỗ trợ lãi suất đạt gần 51.000 tỷ đồng cho gần 1.900 khách hàng.
Vướng mắc chủ yếu có khoảng 67% khách hàng thuộc ngành, lĩnh vực được hỗ trợ lãi suất và đủ điều kiện thụ hưởng nhưng không có nhu cầu được hỗ trợ. Khoảng 87% khách hàng thuộc ngành, lĩnh vực được hỗ trợ lãi suất nhưng không đáp ứng điều kiện được hỗ trợ lãi suất.
Báo cáo cũng cho biết khách hàng đủ điều kiện nhưng lựa chọn không thụ hưởng chính sách, chủ yếu do tâm lý e ngại công tác thanh tra, kiểm tra (đặc biệt là doanh nghiệp), cân nhắc giữa lợi ích từ việc được hỗ trợ lãi suất và chi phí phát sinh nếu nhận hỗ trợ lãi suất (phải theo dõi hồ sơ, chứng từ, tuân thủ các thủ tục hậu kiểm, thanh tra, kiểm toán, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền).
Đồng thời, khách hàng có tâm lý lo ngại trường hợp bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định phải thu hồi số tiền hỗ trợ lãi suất do số tiền này đã được hạch toán vào lợi nhuận doanh nghiệp và chia cổ tức cho cổ đông.
Bên cạnh đó là khó khăn trong việc xác định đối tượng khách hàng thuộc diện “có khả năng phục hồi” theo quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15. Khách hàng mặc dù có khả năng trả nợ nhưng cũng không thể khẳng định có khả năng phục hồi (thường thể hiện thông qua các tiêu chí định lượng như doanh thu/sản lượng/lợi nhuận tăng hoặc các tiêu chí định tính như diễn biến, chiều hướng kinh doanh).
Trường hợp khách hàng được hỗ trợ lãi suất nhưng tình hình sản xuất kinh doanh suy giảm, ảnh hưởng đến các tiêu chí nêu trên làm cho ngân hàng thương mại và khách hàng e ngại bị các cơ quan thanh tra, kiểm tra đánh giá trục lợi chính sách.
Ngoài ra, một số khách hàng có doanh thu/lợi nhuận trong giai đoạn dịch bệnh cao hơn hiện tại nên khó để đánh giá việc đáp ứng tiêu chí “phục hồi”.
“Chính sách có kết quả triển khai rất thấp, dự kiến đến hết năm 2023 chỉ giải ngân được khoảng 2.570 tỷ đồng, còn khoảng 37.430 tỷ đồng không sử dụng hết (năm 2022 là 15.900 tỷ đồng, năm 2023 là 21.530 tỷ đồng)”, báo cáo cho hay.
Theo đánh giá của Chính phủ, do nguồn lực còn lại của chính sách còn lớn nhưng khả năng thực hiện và giải ngân thấp, đồng thời thời gian còn lại của Chương trình phục hồi chỉ còn 7 tháng, việc nghiên cứu điều chuyển nguồn lực cho chính sách khác thuộc Chương trình để thực hiện là khó khả thi do không đủ thời gian đánh giá hiệu quả, tác động. Đồng thời, đây cũng là hạn mức tối đa được Quốc hội giao, hiện chưa huy động.
Do đó, Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét để trình Quốc hội cho phép tiếp tục triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất 2% cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện chính sách với quyết tâm cao nhất, tiếp tục truyền thông, tuyên truyền đẩy mạnh triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất để tạo điều kiện thụ hưởng chính sách cho các đối tượng quan tâm.
Đối với số vốn không giải ngân hết của chính sách sau khi kết thúc thời gian giải ngân kế hoạch năm 2022 và 2023, Chính phủ đề xuất trình Quốc hội hủy dự toán, kế hoạch vốn, không huy động nguồn lực (dự kiến 37.430 tỷ đồng), đồng thời không làm tăng bội chi tương ứng với số vốn này.
Trước đó, trong thông báo kết luận của Thường trực Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội tháng 2; thực hiện chương trình phục hồi kinh tế, giải ngân vốn đầu tư công và các chương trình mục tiêu quốc gia, Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước đánh giá kỹ khả năng giải ngân gói hỗ trợ lãi suất 2% để nghiên cứu, đề xuất cấp có thẩm quyền phương án điều chuyển nhiệm vụ chi hỗ trợ lãi suất sang hình thức, chính sách khác. Trong đó, phương án được xem xét là chuyển sang cho vay nhà ở xã hội, đảm bảo tính khả thi, hiệu quả.