Đa số ĐBQH đều cho rằng, cơ quan soạn thảo và cơ quan chủ trì thẩm tra đã phối hợp chặt chẽ, nghiên cứu, đưa vào dự thảo luật những nội dung đã chín, đã rõ; đồng thời, tiếp thu nghiêm túc ý kiến của đại biểu tại Kỳ họp thứ Sáu.
Quy định rõ hơn thẩm quyền quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị bảo vật quốc gia
Liên quan đến quy định về quản lý, phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ được công nhận là bảo vật quốc gia, Thường trực Ủy ban Pháp luật nhận thấy, tài liệu lưu trữ là đối tượng điều chỉnh của Luật Lưu trữ nên việc thực hiện các nghiệp vụ lưu trữ, trong đó có hoạt động bảo vệ, bảo quản và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ phải tuân thủ quy định của Luật Lưu trữ; trường hợp tài liệu lưu trữ được công nhận là bảo vật quốc gia thì ngoài việc thực hiện theo quy định của Luật Lưu trữ, còn phải tuân thủ quy định của Luật Di sản văn hóa.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, trên cơ sở kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp thứ 30, Thường trực Ủy ban Pháp luật đề nghị bổ sung khoản 5 vào Điều 38 của dự thảo luật với nội dung “Tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt được quản lý, sử dụng và phát huy giá trị theo quy định của Luật này; trường hợp được công nhận, ghi danh là bảo vật quốc gia hoặc danh hiệu khác theo quy định của Luật Di sản văn hóa thì còn phải thực hiện theo quy định của Luật Di sản văn hóa”.
Với quy định tại khoản 5 Điều 38, ĐBQH Phan Viết Lượng (Bình Phước) cho rằng, có thể hiểu việc quản lý, bảo vệ, phát huy di sản, tài liệu lưu trữ đặc biệt là bảo vật quốc gia được thực hiện theo cả Luật Lưu trữ và Luật Di sản văn hóa, là chưa tường minh và có thể chồng chéo, không thống nhất, gây vướng mắc trong thực hiện.
Mặt khác, đại biểu Phan Viết Lượng cũng chỉ rõ, tại khoản 2, Điều 24 của dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi) quy định thẩm quyền của các bộ, ngành liên quan và UBND cấp tỉnh về mang tài liệu lưu trữ của Nhà nước ra nước ngoài, chưa có quy định chuyên biệt về mang tài liệu lưu trữ đặc biệt là bảo vật quốc gia ra nước ngoài. Trong khi đó, khoản 2, Điều 44 Luật Di sản văn hóa hiện hành quy định Thủ tướng Chính phủ quyết định đưa bảo vật quốc gia ra nước ngoài; và, khi sửa đổi luật này trong thời gian tới cũng sẽ sửa đổi, bổ sung những quy định liên quan đến bảo vệ, phát huy bảo vật quốc gia.
Do vậy, để đồng bộ, thống nhất trong áp dụng pháp luật, đại biểu cho rằng, cần rà soát và quy định rõ hơn về thẩm quyền quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt là bảo vật quốc gia; quy định rõ hơn khi nào, với nội dung, biện pháp nào thì áp dụng cả hai luật, khi nào chỉ áp dụng quy định Luật Di sản văn hóa, không áp dụng Luật Lưu trữ.
Chỉnh sửa thuật ngữ cho phù hợp với Luật Di sản văn hoá
ĐBQH Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Dương) đề nghị, dự thảo Luật cần chỉnh sửa các thuật ngữ cho phù hợp với quy định của Luật Di sản văn hóa hiện hành. Theo đó, sửa đổi từ “trường hợp được công nhận, ghi danh là bảo vật quốc gia hoặc danh hiệu khác theo quy định của Luật Di sản văn hóa…” thành “trường hợp được công nhận, ghi danh là tư liệu di sản thế giới hoặc danh hiệu khác theo quy định của Luật Di sản văn hóa…”. Lý do là bởi với bảo vật quốc gia thì việc công nhận và thẩm quyền công nhận là của Thủ tướng Chính phủ; còn với di sản tư liệu, di sản phi vật thể là “ghi danh” và không dùng “ghi danh” cho bảo vật quốc gia.
Ở góc độ khác, ĐBQH Nguyễn Trường Giang (Đắk Nông) cho rằng, về nguyên tắc, đã là tài liệu lưu trữ thì trước hết cần thực hiện theo quy định pháp luật về lưu trữ. Do vậy, việc phát huy và sử dụng giá trị tài liệu lưu trữ cũng cần phải thực hiện theo pháp luật lưu trữ.
Mặt khác, theo đại biểu, việc ghi danh và công nhận tài liệu lưu trữ đặc biệt không chỉ cùng điều chỉnh bởi Luật Di sản văn hóa, tại Luật Thư viện hiện hành cũng quy định về ghi danh và công nhận tài liệu đặc biệt theo quy định của Luật này. Do vậy, đại biểu Nguyễn Trường Giang đề nghị, quy định tại khoản 5, Điều 38 nên được mở rộng theo hướng trường hợp nào tài liệu lưu trữ được công nhận, ghi danh bởi luật có liên quan thì thực hiện theo quy định của luật có liên quan.