Cả hệ thống giáo dục đại học Việt Nam mới có khoảng 200 bằng độc quyền sáng chế

Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, trong cả quá trình phát triển, cả hệ thống giáo dục đại học (GDĐH) mới chỉ sở hữu khoảng gần 200 bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích trong nước và vài chục bằng sáng chế quốc tế. Trong khi đó, Việt Nam hiện có khoảng 9.000 giáo sư và phó giáo sư, 24.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ.

Công bố khoa học quốc tế chiếm hơn 80,78% các sản phẩm 

Theo Bộ GD-ĐT, thời gian qua đội ngũ nhà khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) tăng cả về chất lượng và số lượng; cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ (KHCN) phục vụ nghiên cứu, đào tạo và phát triển KT-XH được quan tâm đầu tư; các công bố khoa học quốc tế của các cơ sở GDĐH tăng, chiếm hơn 80,78% các sản phẩm khoa học, sản phẩm chuyển giao khác đóng góp quan trọng của hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) cho giáo dục. Đáng chú ý, nhiều sản phẩm đã được thương mại hóa ở thị trường trong nước và thế giới.

Tốc độ tăng trưởng nhanh về sản lượng nghiên cứu đã góp phần đưa một số trường đại học vào bảng xếp hạng đại học quốc tế.

Cụ thể, năm 2019, lần đầu tiên đại học Việt Nam có tên trong các bảng xếp hạng uy tín, bao gồm: Xếp hạng học thuật của các trường đại học thế giới (ARWU) (một trong top 901-1.000); xếp hạng THE (hai trường trong top 801-1.000, một trong top 1.000+); và xếp hạng QS (một trường trong top 400-550).

Về xếp hạng quốc tế theo nhóm ngành, tại bảng xếp hạng các cơ sở GDĐH theo nhóm ngành năm 2023 của tổ chức Quacquarelli Symonds (QS), có 11 ngành đào tạo tại 6 cơ sở GDĐH của Việt Nam được xếp hạng trong top 51-630 tốt nhất thế giới. Trong đó, kết quả tập trung nhiều tại top 351-500, tại ngành Kỹ thuật với 5 nhóm ngành được xếp hạng và tại 4 cơ sở GDĐH gồm: Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Đại học Bách Khoa Hà Nội và Trường Đại học Tôn Đức Thắng.

Năm 2023, Việt Nam tiếp tục 11 cơ sở GDĐH được xếp hạng trong QS AUR 2023 và 09 đại diện vào bảng xếp hạng của THE.

Theo TS. Thiều Huy Thuật, Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia khu vực Tây Nguyên, nỗ lực để có mặt trong các bảng xếp hạng đại học tốt nhất trên thế giới của các trường đại học Việt Nam rất đáng ghi nhận.

Tuy nhiên, theo thống kê số đại học vào top 1.000 của ba bảng xếp hạng uy tín Webometrics, QS và THE do Ngân hàng thế giới thực hiện năm 2020, Việt Nam đứng cuối cùng, sau cả Philippines, Indonesia, Malaysia và Thái Lan.

Theo đó, tại mỗi bảng QS và THE, Việt Nam chỉ có hai trường góp mặt trong top 1.000 và không có đại diện nào ở Webometrics. Trong khi đó Indonesia là 9, 3 và 2, còn Thái Lan là 8, 5 và 6.

Ngoài ra, Trung Quốc, quốc gia đứng đầu bảng xếp hạng, có đến 40 đại diện ở top 1.000 QS, 63 THE và 103 Webometrics. Xét tỷ lệ nghiên cứu trên một triệu dân giai đoạn 2010 - 2017, Việt Nam tăng từ 23 lên 63, thấp hơn với mức 10 - 71 của Indonesia, 140 - 212 của Thái Lan và còn kém xa mức 4.092 - 4.813 của Thuỵ Sĩ, quốc gia đứng đầu danh sách. Trong 10 năm 2008-2018, Việt Nam tăng từ vị trí 64 lên 45 về chỉ số đổi mới toàn cầu nhưng vẫn đứng chót về hầu hết chỉ số khác.

Cả hệ thống giáo dục đại học Việt Nam mới có khoảng 200 bằng độc quyền sáng chế -0
Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ và đại học ở Việt Nam hiện nay
(Nguồn: Bộ giáo dục và đào tạo)

Việt Nam hiện có khoảng 9.000 giáo sư và phó giáo sư, 24.000 tiến sĩ

Theo Bộ GD-ĐT, các cơ sở GDĐH nhận được số tiền tài trợ của Chính phủ cho nghiên cứu ít hơn nhiều so với hệ thống viện nghiên cứu nhà nước (1,4% so với 26,93% - theo dữ liệu năm 2017).

Tuy nhiên, các cơ sở GDĐH có số lượng bài báo quốc tế ISI cao gấp 4 lần so với khối các viện nghiên cứu tạo ra (80,78% so với 19,22% - theo số liệu giai đoạn 2011-2019).

Trong năm 2004 và 2008, các trường đại học Việt Nam chiếm 55% tổng số công bố quốc tế được bình duyệt. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2011 - 2019, con số này đã tăng lên hơn 80%; các viện nghiên cứu chiếm dưới 20%. Mặc dù vậy, chỉ 1/4 các trường đại học (66/235) có các công bố quốc tế ISI.

Trong bối cảnh chung là ngân sách nhà nước cho hoạt động nghiên cứu và phát triển rất hạn hẹp thì kinh phí dành cho nghiên cứu ở các cơ sở GDĐH cũng rất hạn chế.

Bộ GD-ĐT cho biết, trong cả quá trình phát triển, cả hệ thống GDĐH mới chỉ sở hữu khoảng gần 200 bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích trong nước và vài chục bằng sáng chế quốc tế. Các trường đại học còn thiếu các văn phòng chuyển giao công nghệ, các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ chuyển giao công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, trong giai đoạn 2010 - 2015, số lượng công bố quốc tế trong các cơ sở GDĐH không nhiều. Trong giai đoạn 2016-2022, số lượng các bài báo khoa học do giảng viên các cơ sở GDĐH công bố trên WoS tăng từ 2.107 vào năm 2016 lên 7.502 vào năm 2020 (tăng 3,56 lần), chiếm 69,1% tổng số bài báo WoS của cả nước; số lượng bài báo công bố trên tạp chí SCOPUS tăng từ 4.735 vào năm 2016 lên 18.130 vào năm 2020 (chiếm 92,4% số bài báo SCOPUS của các nước) và năm 2022 đạt 18.557.

Trong số 10 tổ chức của Việt Nam có công bố quốc tế cao nhất năm 2022 thì có tới 09 tổ chức là các cơ sở GDĐH. Mặc dù vậy, số công bố/giảng viên, chỉ số trích dẫn của các công trình khoa học của Việt Nam nói chung và giảng viên nói riêng vẫn còn khiêm tốn.

TS. Thiều Huy Thuật nhận định, số lượng các công bố quốc tế của các trường đại học ở Việt Nam vẫn còn thua kém nhiều nước trong khu vực. Hiện nay, số lượng và chất lượng các công trình công bố trên các ấn phẩm khoa học quốc tế đã trở thành thước đo quan trọng về chất lượng GDĐH ở các quốc gia.

Việt Nam hiện có khoảng 9.000 giáo sư và phó giáo sư, 24.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ, nhưng số lượng công bố quốc tế còn khá hạn chế, chỉ số ảnh hưởng của các công trình nghiên cứu khoa học của Việt Nam cũng thấp hơn so với một số nước trong khu vực, như Thái Lan, Malaysia, Singapore.

TS. Thiều Huy Thuật cho rằng, GDĐH muốn tham gia hội nhập quốc tế với khu vực và thế giới cần nhiều giải pháp, trong đó cần đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, tăng số lượng các công bố quốc tế, từ đó góp phần cải thiện thứ hạng trong các bảng xếp hạng quốc tế uy tín. Trong 3 năm trở lại đây, số lượng các công bố quốc tế của Việt Nam ngày càng được cải thiện nhưng vẫn thấp so với các nước trên thế giới.

Theo Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), trong giai đoạn 2013- 2022, tốc độ tăng trưởng bình quân của đơn đăng ký sở hữu trí tuệ (SHTT, gồm sáng chế, giải pháp hữu ích, bảo hộ giống cây trồng, nhãn hiệu hàng hóa…) tại Việt Nam là 9,1%/năm, trong đó đơn đăng ký sở hữu trí tuệ (SHTT) của chủ thể Việt Nam đạt trung bình khoảng 150 đơn/năm và đang tăng nhanh hơn so với đơn của chủ thể nước ngoài.

Tỉ trọng số lượng đơn đăng ký sáng chế như sau: Khối doanh nghiệp 40%; cá nhân 34%; trường đại học 15,5%; viện nghiên cứu 10,3%. 

GS.TS Lê Anh Vinh, Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết:  Năm học 2021 -2022, số lượng giảng viên (GV) 85.077, tỉ lệ GV có trình độ tiến sĩ tăng đạt khoảng 38.9% (so với khoảng 11% năm 2011), tỉ lệ GV có trình độ đại học vẫn chiếm khoảng 7.9% (năm 2011 chiếm khoảng 47%).

Tỉ lệ giảng viên có chức danh giáo sư và phó giáo sư cũng tăng đều trong giai đoạn từ năm 2010 đến nay, trong đó giáo sư tăng từ 0,4% lên đến 0,9%; phó giáo sư từ 2,8% lên đến 6,5%. Trong số nhiều yếu tố quyết định chất lượng và mức độ phù hợp thực tiễn của giáo dục đại học, giáo viên là một trong những yếu tố quan trọng nhất.

Giáo dục

UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu chỉ đạo làm rõ vụ giáo viên Trường mầm non Ánh Dương phản ánh bị cắt xén bữa ăn
Giáo dục

UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu chỉ đạo làm rõ vụ giáo viên Trường mầm non Ánh Dương phản ánh bị cắt xén bữa ăn

UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã chỉ đạo UBND huyện Châu Đức khẩn trương kiểm tra, xác minh làm rõ vụ giáo viên Trường mầm non Ánh Dương phản ánh bị cắt xén bữa ăn, bảo đảm nguyên tắc xử lý dứt điểm, không né tránh, không bao che, không đối phó.

Lẵng hoa đặc biệt “quét QR” trong lễ khai giảng năm học mới của Trường Đại học Ngoại thương
Giáo dục

Lẵng hoa đặc biệt “quét QR” trong lễ khai giảng năm học mới của Trường Đại học Ngoại thương

Ngay trên sân khấu của buổi lễ khai giảng, Trường Đại học Ngoại thương đã chuẩn bị một lẵng hoa đặc biệt với thông tin tài khoản của Ban cứu trợ Trung ương - Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để lan tỏa tinh thần vì cộng đồng, chung tay giúp đỡ đồng bào chịu hậu quả nặng nề sau bão Yagi.

4 “chàng trai Vàng” Olympic quốc tế Sinh học, Hóa học năm 2024 chọn Trường Đại học Y Hà Nội
Giáo dục

4 “chàng trai Vàng” Olympic quốc tế Sinh học, Hóa học năm 2024 chọn Trường Đại học Y Hà Nội

Các “chàng trai Vàng” Olympic Sinh học quốc tế (IBO) năm 2024 gồm: Nguyễn Tiến Lộc, Nguyễn Sĩ Hiếu, Đặng Tuấn Anh; cùng Nguyễn Hữu Tiến Hưng - Huy chương Vàng, thí sinh có điểm cao nhất đoàn Việt Nam tại Olympic Hóa học Quốc tế (IChO) 2024 cùng chọn theo học ngành Y khoa, Trường Đại học Y Hà Nội.

Thầy và trò Trường THPT Chuyên Khoa học Xã hội và Nhân văn chung tay quyên góp, ủng hộ đồng bào khắc phục hậu quả bão số 3
Giáo dục

Thầy và trò Trường THPT Chuyên Khoa học Xã hội và Nhân văn chung tay quyên góp, ủng hộ đồng bào khắc phục hậu quả bão số 3

Ngày 16.9, Chi bộ, Ban Giám hiệu, Công đoàn, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Trường THPT Chuyên Khoa học Xã hội và Nhân văn (KHXH&NV), Đại học Quốc gia Hà Nội đã tổ chức phát động ủng hộ đồng bào các tỉnh, thành phố phía Bắc khắc phục hậu quả do cơn bão số 3 gây ra. 

Cô giáo tâm huyết với nghề
Giáo dục

Cô giáo tâm huyết với nghề

Tâm huyết với nghề, giàu kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi, cô giáo Vũ Thị Vân (SN 1976), Phó Bí thư Chi bộ, Phó Hiệu trưởng Trường THCS thị trấn Phương Sơn (Lục Nam) luôn được đồng nghiệp, học sinh tin yêu.

Hai anh em tiểu học “đập lợn” ủng hộ 15 triệu đồng cho bạn mồ côi cha mẹ vì sạt lở đất
Giáo dục

Hai anh em tiểu học “đập lợn” ủng hộ 15 triệu đồng cho bạn mồ côi cha mẹ vì sạt lở đất

Thương cảm với hoàn cảnh em nhỏ trong vụ sạt lở đất ở Cuối Hạ - Kim Bôi (Hoà Bình) khi mất cả cha lẫn mẹ, hai anh em ruột Nguyễn Gia An - lớp 4A2 và Nguyễn Minh Tuấn - lớp 1A1, Trường Tiểu Học Trần Hưng Đạo, TP. Hoà Bình đã đập lợn tiết kiệm để góp tiền ủng hộ 15 triệu đồng.