Quan tâm đến những giải pháp gốc
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội (ĐBQH), trong dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đã bổ sung Điều 22 về bảo vệ nguồn nước mặt. Đồng thời, tiếp thu, chỉnh lý theo hướng bổ sung nội dung quản lý theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật như quy định tại các điều liên quan.
Nước mặt vô cùng quan trọng, hầu hết lượng nước chúng ta đang sử dụng cơ bản là nước mặt, và có lẽ đây sẽ vẫn là nguồn nước chính trong tương lai. Nhấn mạnh điều này, ĐBQH Nguyễn Anh Trí (TP. Hà Nội) đề nghị, cần tách khoản 1, Điều 22 thành 2 điều khoản riêng về bảo vệ nguồn nước, chống ô nhiễm nguồn nước; phòng, chống suy thoái, cạn kiệt chủ động, tích cực lưu giữ nguồn nước mặt. Qua đó, tiếp tục rà soát, nghiên cứu bổ sung quy định các biện pháp giữ nước, đặc biệt là giữ cho được nước mưa ở nước ta. Đất nước ta mưa nhiều thật, nhưng với địa hình nghiêng từ Tây sang Đông, dòng sông ngắn, nước mưa cũng sẽ thoát rất nhanh. Do đó, giữ lại nước mặt rất quan trọng và sẽ mang lại nhiều lợi ích cho chúng ta, đặc biệt các tỉnh ở miền Trung, nhất là ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Đây phải trở thành một chiến lược quốc gia, phải có chỉ tiêu để “treo nước lại”, “giữ nước lại, quan tâm tăng hệ số an toàn các hồ, đập để trữ nước, đại biểu Nguyễn Anh Trí nhấn mạnh.
Cho rằng “tăng hệ số an toàn các hồ, đập để trữ nước chỉ là giải pháp đằng ngọn”, ĐBQH Trần Văn Lâm (Bắc Giang) đề nghị, cần quan tâm đến những giải pháp mang tính gốc là tăng khả năng trữ nước của thảm thực vật trên các lưu vực sông. Bởi, qua thực tế khảo sát nhiều công trình hồ, đập của Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Giang cho thấy thực tế “một loạt công trình hồ, đập đã xây dựng không phát huy đầy đủ công năng, không tích được đủ nước, vào mùa mưa phải xả tràn, đến mùa khô lại cạn kiệt, hiệu quả sử dụng rất thấp”.
Tình trạng này, theo đại biểu Trần Văn Lâm, có nguyên nhân do khả năng trữ nước sinh thủy của thảm thực vật suy giảm một cách nghiêm trọng, nhất là khi nhiều diện tích phòng hộ, rừng đặc dụng trước đây được chuyển thành rừng sản xuất có khả năng trữ nước rất hạn chế. Do đó, vấn đề cần quan tâm hiện nay là tăng khả năng sinh thủy của các lưu vực sông, để cấp nước cho các hồ đập trong tự nhiên. Điều 30, dự thảo Luật đã quy định cụ thể nhiều biện pháp để bảo vệ và tăng nguồn sinh thủy, nhưng phải coi bảo vệ nguồn sinh thủy như một chính sách quốc gia. Tức là, quy định tại Điều 30 cần nghiên cứu để đưa vào quy định tại Điều 4 về chính sách của Nhà nước để bảo vệ và gia tăng khả năng trữ nước sinh thủy của các loại rừng. Ngoài ra, theo đại biểu Trần Văn Lâm, không chỉ dừng ở các chính sách hiện nay, tới đây sẽ phải mở rộng như mở rộng đối tượng thu của Quỹ dịch vụ môi trường rừng...
Mở rộng phạm vi điều chỉnh có nguy cơ gây thất thoát một số loại tài nguyên nước
Tại Hội nghị, vấn đề được Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường xin ý kiến là có nên hay không nên mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật Tài nguyên nước đối với nước khoáng, nước nóng thiên nhiên nhận được sự quan tâm của một số ĐBQH. Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy cho rằng, nước khoáng, nước nóng thiên nhiên có tính chất lý, hóa đặc biệt, có giá trị kinh tế cao hơn nước thông thường nên cần có yêu cầu quản lý nghiêm ngặt, chặt chẽ như một loại tài nguyên, khoáng sản có giá trị kinh tế. Loại nước này hiện đang được quản lý ổn định theo pháp luật về khoáng sản. Do đó, Chủ nhiệm Ủy ban Lê Quang Huy cho biết, trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường không bổ sung 2 loại nước này trong phạm vi điều chỉnh để tránh xáo trộn.
Tán thành với quan điểm của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường về vấn đề này, ĐBQH Nguyễn Thị Thủy (Bắc Kạn) đưa ra 5 lý do. Thứ nhất, nước khoáng và nước nóng thiên nhiên là khoáng sản, có tính chất tự nhiên rất khác biệt so với các nguồn nước mặt, cũng như là các nguồn nước khác ở dưới lòng đất. Vì lý do này nên trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều đang quy định là khoáng sản và đang được quản lý, khai thác, vận hành hiệu quả cho mục tiêu phát triển kinh tế, cũng như y học.
Thứ hai, do xác định là khoáng sản nên hiện nước khoáng, nước nóng thiên nhiên đang được điều chỉnh trong Luật Khoáng sản và được quản lý, bảo vệ, khai thác theo một quy trình rất chặt chẽ như đối với tất cả các khoáng sản khác. Ngay từ khâu thăm dò cũng đã phải có giấy phép thì mới được thực hiện, và trong quá trình thực hiện phải thiết lập vành đai bảo vệ. Đến khâu khai thác, để được cấp giấy phép khai thác, các chủ thể phải đáp ứng đầy đủ 3 nhóm điều kiện quy định tại Điều 53, Luật Khoáng sản. Đặc biệt, tại Điều 5, Luật Khoáng sản quy định trách nhiệm rất cao đối với các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản.
Thứ ba, nếu đưa nước khoáng, nước nóng thiên nhiên sang điều chỉnh tại dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) và áp dụng cơ chế quản lý của Luật này, đại biểu Nguyễn Thị Thủy lo ngại, sẽ không phù hợp về mặt bản chất, có nguy cơ gây thất thoát nguồn tài nguyên có giá trị kinh tế cao này. Bởi, trong dự thảo Luật Tài nguyên nước hiện hành quy định không phải mọi trường hợp khai thác đều phải được cấp giấy phép. Tại dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) cũng đang liệt kê 15 trường hợp khai thác tài nguyên nước không cần phải có giấy phép, đặc biệt quá trình thăm dò không cần phải thiết lập vành đai bảo vệ bao gồm là vành đai bảo vệ nghiêm ngặt và vành đai bảo vệ sinh thái như quy định áp dụng đối với khai thác khoáng sản”. Với những lý do này, đại biểu Nguyễn Thị Thủy cho rằng, áp dụng cơ chế của dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) là không phù hợp đối với nước khoáng và nước nóng thiên nhiên này.
Thứ tư, trên phạm vi cả nước có 35 tỉnh, thành phố đang thực hiện hoạt động thăm dò, khai thác nước khoáng, nước nóng thiên nhiên, với 66 mỏ đã được cấp giấy phép. Số liệu thống kê chuyên ngành cũng cho thấy, nhiều tỉnh, thành phố đang khai thác hiệu quả nguồn nước khoáng, nước nóng thiên nhiên này phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế cũng như hoạt động y học ở địa phương thông qua mô hình du lịch kết hợp với nghỉ dưỡng. Với những lý do này, đại biểu Nguyễn Thị Thủy lo ngại, nếu đưa nước khoáng, nước nóng thiên nhiên sang để điều chỉnh và áp dụng cơ chế quản lý của Luật Tài nguyên nước sẽ không chỉ không phù hợp về mặt bản chất mà sẽ tác động lớn đến thu ngân sách của địa phương, trong khi vấn đề chưa được đánh giá tác động.
Thứ năm, kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy, nhiều nước trên thế giới hiện nay ban hành luật riêng hoặc văn bản riêng quy định về nước khoáng, nước nóng thiên nhiên.