Bộ Giáo dục và Ðào tạo (GD-ĐT) vừa tổ chức Tọa đàm xây dựng dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và Khung trình độ quốc gia Việt Nam.
Việc sửa đổi phải bảo đảm tính liên thông
Theo Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Hoàng Minh Sơn, triển khai thực hiện Nghị quyết số 29/NQ-TW về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, năm 2016, Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và Khung trình độ quốc gia Việt Nam (VQF) được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo Quyết định số 1981/QĐ-TTg, 1982/QĐ-TTg.
Sau đó, Quốc hội ban hành Luật Giáo dục 2019; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục đại học và có một số điểm, một số nội dung chưa hoàn toàn nhất quán giữa 2 quyết định với điều khoản của Luật.
Bên cạnh đó, thực tiễn 8 năm triển khai khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và khung trình độ quốc gia Việt Nam cho thấy có một số điểm còn bất cập liên quan đến liên thông, phân luồng trong giáo dục, đối sánh với khung trình độ của các nước, đặc biệt các tiêu chuẩn do UNESCO ban hành; những vướng mắc đặt ra trong công nhận trình độ, công nhận văn bằng, công nhận trình độ để học sinh đi học nước ngoài...
Theo Chương trình công tác năm 2024 của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số 53/QĐ-TTg), Bộ GD-ĐT được giao nhiệm vụ xây dựng dự thảo Quyết định và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân (thay thế Quyết định số 1981/QĐ-TTg) và Khung trình độ quốc gia Việt Nam (thay thế Quyết định 1982/QĐ-TTg).
“Đây là cơ hội để chúng ta rà soát lại, đánh giá từ thực tiễn, từ các văn bản quy phạm pháp luật, nhất là trong quy định của Luật, xem những gì còn bất cập cần sửa đổi cho phù hợp”, Thứ trưởng nhấn mạnh, đồng thời lưu ý việc sửa đổi phải bảo đảm tính liên thông trong hệ thống cũng như tương thích với các chuẩn khu vực và thế giới.
Đảm bảo hội nhập, tương thích với các nước trong khu vực
Cho rằng, thực sự cần thiết phải sửa đổi Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, Khung trình độ quốc gia Việt Nam, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học (GDĐH) Nguyễn Thị Thu Thủy cho biết: Quyết định số 1981/QĐ-TTg phê duyệt Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân đang quy định về tiêu chuẩn đầu vào, thời gian học tập và cơ hội học tập tiếp tục của các cấp học và trình độ đào tạo thuộc giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên trong hệ thống giáo dục.
Tuy nhiên, một số thành tố trong Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay thiếu tính hội nhập, thiếu tính thống nhất, thiếu tính liên thông và chưa hỗ trợ được tốt cho việc phân luồng giáo dục sau THCS.
Bên cạnh đó, thiết kế Khung trình độ quốc gia Việt Nam cần phù hợp với các khung và tiêu chuẩn trình độ quốc tế nhằm tạo điều kiện công nhận bằng cấp và hỗ trợ khả năng di chuyển quốc tế cho sinh viên, người lao động; cần đảm bảo áp dụng nhất quán trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo khác nhau và đảm bảo sự tham gia các bên liên quan trong thúc đẩy các cơ chế bảo đảm chất lượng, hiệu quả.
Các cơ sở giáo dục đại học đều thực hiện tham chiếu Khung trình độ quốc gia Việt Nam khi xây dựng các chuẩn đầu ra cho các chương trình đào tạo, nhưng còn thiếu kết nối với đáp ứng kỹ năng làm việc từ thị trường lao động. Các điều kiện bảo đảm chất lượng cũng cần rà soát, chuẩn hóa, và quản lý, giám sát chặt chẽ bởi cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giúp công nhận các trình độ đào tạo với các nước trong ASEAN.
Hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng đảm bảo hội nhập, đảm bảo tính liên thông, thống nhất, hỗ trợ phân luồng sau THCS. Tất cả các trình độ ở các bậc/cấp độ của hệ thống giáo dục quốc dân cần được thiết kế gồm 3 tiêu chí: Định hướng của chương trình; mức độ hoàn thành cấp độ; khả năng được chuyển tiếp lên cấp độ cao hơn”, Phó Vụ trưởng Nguyễn Thị Thu Thủy thông tin.
Với khung trình độ quốc gia Việt Nam, Ban soạn thảo đề xuất phân loại, chuẩn hóa năng lực, khối lượng học tập tối thiểu và văn bằng, chứng chỉ phù hợp với các trình độ của hệ thống giáo dục quốc dân. Đồng thời, thiết lập cơ chế kết nối hiệu quả giữa yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực của bên sử dụng lao động với hệ thống các trình độ đào tạo. Làm cơ sở để xây dựng chuẩn chương trình đào tạo, xây dựng chính sách bảo đảm chất lượng và nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực. Tạo cơ chế liên thông giữa các trình độ đào tạo, xây dựng xã hội học tập và học tập suốt đời.
Cùng với đó, thiết lập mối quan hệ với tham chiếu khung trình độ quốc gia (NQFs) của các nước ASEAN thông qua các khung tham chiếu trình độ khu vực và quốc tế làm cơ sở thực hiện công nhận lẫn nhau về trình độ.