“Thăng Long phi chiến địa”
Từ Thăng Long, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh đến Bắc Thành rồi Hà Nội, mảnh đất này đã trải qua hơn nghìn năm hình thành, phát triển, can qua nhiều cuộc binh biến lịch sử. “Thăng Long phi chiến địa” (nghĩa là Thăng Long không phải đất của chiến sự) nhưng thực tế kinh thành này từng là chiến trường ác liệt của cả nội chiến và ngoại xâm, tổn hại rất nhiều. Như sinh thời, nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc nhận định Thăng Long - Hà Nội đúng là mảnh đất dạn dày lửa đạn và cũng là một tòa thành bách chiến bách thắng, bởi kẻ thù nào chạm tới mảnh đất thiêng này cũng đều phải tháo chạy. Mỗi tấc đất Thăng Long - Hà Nội còn ghi dấu bao sự tích oai hùng và đượm thắm máu đào liệt sĩ.
Soi chiếu các mốc thời gian, nhà sử học Dương Trung Quốc nhìn ra “thước phim” quay ngược về lịch sử Hà Nội: những ngày bắn phá máy bay ném bom B52 gầm rú trên bầu trời (trận Điện Biên Phủ trên không - 1972), những ngày mở rộng cửa ô đón đoàn quân chiến thắng trở về (1954), những ngày đặt mìn, đào chiến hào của Trung đoàn Thủ đô, mở đầu Toàn quốc kháng chiến (cuộc rút quân mùa đông 1946 lên chiến khu Việt Bắc)… Lùi xa hơn nữa, mảnh đất này từng bị chiếm đóng 80 năm dưới ách đô hộ của chế độ thuộc địa Pháp, cũng từng là nơi kết thúc cuộc chiến tranh chống xâm lược phương Bắc, đỉnh cao là chiến thắng Tây Sơn… Đặc biệt, gần 600 năm trước, vào đầu thế kỷ XV, truyền thuyết vua Lê trả gươm cho rùa thần sau khi quét sạch giặc thù, gắn với tên hồ Hoàn Kiếm cho tới ngày nay, đã trở thành biểu tượng cho khát vọng hòa bình trường tồn của Thăng Long - Hà Nội.
Vì niềm khát khao hòa bình ấy mà dù qua nhiều biến cố, ý nghĩa của “Thăng Long phi chiến địa” chưa bao giờ thay đổi. Nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng, trong hoàn cảnh nào, tâm thế của người dân sau khi kết thúc xung đột chiến tranh đều hướng tới thái bình và hữu nghị. Hà Nội, bởi vậy, còn được biết đến với danh nghĩa “Thủ đô của phẩm giá con người”, “Thành phố Vì hòa bình”…
“Các cuộc chiến đấu trước đây cho thấy chúng ta không e ngại phải sử dụng vũ lực, nhưng chúng ta luôn mong muốn hòa bình. Suy cho cùng, điều đó vẫn nằm trong tư tưởng xuyên suốt là dân tộc Việt Nam muốn hòa hiếu với tất cả dân tộc, tôn vinh tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng gói gọn trong câu Không có gì quý hơn độc lập tự do. Và chính nhờ những trải nghiệm chiến tranh mà dân tộc Việt Nam nói chung và nhân dân Thủ đô nói riêng càng thêm trân trọng những giá trị của hòa bình” - nhà sử học Dương Trung Quốc nhấn mạnh.
Dung dưỡng những giá trị nhân văn
Vì Hà Nội là chốn nuôi dưỡng giá trị của hòa bình nên một cách tự nhiên cũng là chốn dung dưỡng những tâm hồn yêu Hà Nội. Như đạo diễn, NSND Đặng Nhật Minh nhiều lần chia sẻ: “Hà Nội là tình yêu của tôi, là cuộc đời và cả số phận của tôi”. Dù sinh ra ở Huế nhưng đạo diễn Đặng Nhật Minh gắn bó với Hà Nội suốt 60 năm, chứng kiến rất nhiều đổi thay ở Hà Nội, người Hà Nội, có riêng cho mình một lịch sử Hà Nội bằng điện ảnh, trải dài từ quá khứ đến hiện tại, điển hình là Hà Nội mùa đông 46, Mùa ổi, Hoa nhài. Ông làm phim vì món nợ với thành phố, vì thứ tình cảm không phải máu mủ ruột già nhưng khăng khít, thiêng liêng. Hỏi rằng hơn 80 năm cuộc đời, giờ nhìn lại thấy Hà Nội cho mình điều gì, ông bảo: “Chính tại mảnh đất này, tôi trưởng thành, biết yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu những con người bình thường, nhỏ bé”.
Cho ra mắt nhiều tác phẩm như 5678 bước chân quanh Hồ Gươm, Đi ngang Hà Nội, Đi dọc Hà Nội, Đi xuyên Hà Nội, Hà Nội còn một chút này… nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến cho biết, Hà Nội mãi là nguồn cảm hứng bất tận trong ông và còn rất nhiều điều để viết về mảnh đất ông được sinh ra và có nhiều kỷ niệm. Viết về Hà Nội ở nhiều giai đoạn lịch sử, tuy nhiên, nhà văn ấn tượng nhất giai đoạn nửa cuối thế kỷ XX. Sau 1954, mọi thứ rất bộn bề, đất nước chia làm 2 miền, nhiều gia đình chia ly Nam - Bắc. Khi đế quốc Mỹ ném bom miền Bắc, các gia đình từ Hà Nội “rồng rắn” sơ tán về những miền quê, vô cùng vất vả, khó khăn, thường xuyên phải chịu đói. Tuy nhiên, sau 1972, thành phố trở lại trạng thái hòa bình, hoạt động văn hóa văn nghệ dần được khôi phục, mọi người mượn sách của nhau để đọc, mượn đĩa than của nhau để nghe, thanh niên tập đàn hát… Tất cả, mau chóng trở lại cuộc sống bình yên, giữ nguyên cái chất hào hoa, tao nhã của người Hà Nội.
Hòa bình đã mang đến cho Hà Nội một diện mạo mới, hiện đại và năng động, nhưng vẫn giữ gìn được những giá trị văn hóa truyền thống quý báu. Từ những đổ nát của chiến tranh, thành phố ngàn năm văn hiến không chỉ hồi sinh mà còn phát triển mạnh mẽ, vươn mình trở thành một đô thị hiện đại, năng động, hội nhập. Đến nay, thành phố không chỉ là trung tâm chính trị, kinh tế của cả nước mà còn là một biểu tượng hòa bình, được UNESCO vinh danh là "Thành phố vì hòa bình" duy nhất tại châu Á - Thái Bình Dương.
Theo Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, năm chữ “Thành phố vì hòa bình” ấy có được là bởi Hà Nội đã trải qua những cuộc kháng chiến, người Hà Nội nói riêng và người Việt Nam nói chung đã đổ bao nhiêu xương máu với khát khao lớn nhất - hòa bình. Đến nay, hòa bình thể hiện trong rất nhiều khía cạnh, về thiên nhiên, văn hóa, lòng người, cả ý thức sống của người Hà Nội cho thành phố của mình.
“Hòa bình ở đó không chỉ là sự an toàn, không có chiến tranh mà được tạo nên từ vẻ đẹp trong tất cả kiến trúc, phong tục, lời ăn tiếng nói của Hà Nội và trong sự phát triển của Hà Nội. Hòa bình bao trùm không gian để mỗi người sống trong mỗi ngôi nhà, ngõ phố nhỏ của Hà Nội luôn cảm thấy rằng thành phố này đã mang lại cho họ đầy cảm xúc, khiến họ muốn sống tốt hơn với người bên cạnh”, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nhận định.