Tự chủ đại học là động lực để trở thành đại học đẳng cấp quốc tế
Các bảng xếp hạng xếp hạng quốc tế như QS (Quacquarelli Symonds), THE (Times Higher Education) đánh giá xếp hạng đại học, xếp hạng nhóm ngành, xếp hạng ảnh hưởng theo 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDG), xếp hạng theo danh tiếng... theo các bộ tiêu chí được công khai.
Kết quả xếp hạng một đại học theo các bảng xếp hạng khác nhau có thể khác nhau do quan điểm xếp hạng hoặc do mức độ ưu tiên của mỗi đại học. Nhưng ở mức độ nào đó, những kết quả này cho chúng ta một góc nhìn khá thực tế về các đại học top đầu của thế giới.
"Không nên chạy theo xếp hạng đại học, nhưng các đại học Việt Nam có thể tham khảo các bộ tiêu chí công khai của các bảng xếp hạng đại học như là một phần trong những mục tiêu của chiến lược phát triển”, Chủ tịch Hội đồng đại học Đại học Bách khoa Hà Nội GS.TS Lê Anh Tuấn nhìn nhận.
Theo GS.TS Lê Anh Tuấn, chủ trương và quan điểm xuyên suốt của Đảng về giáo dục, đào tạo đã được cụ thể hóa trong nhiều văn kiện đại hội, trong nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng như Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4.11.2013 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Gần đây nhất là Nghị quyết 45-NQ/TW ngày 24.11.2023 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.
GS.TS Lê Anh Tuấn nhìn nhận, giáo dục đại học chính là nơi thực hiện sứ mạng phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây cũng là nơi phát triển và nuôi dưỡng tri thức, nền tảng quan trọng để gìn giữ truyền thống văn hóa, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Luật số 34/2018/QH14) đi vào thực tiễn đã tạo ra bộ mặt mới cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Tự chủ đại học chính là động lực để các đại học định hướng trở thành đại học đẳng cấp quốc tế.
Ba nhóm yếu tố cấu thành một đại học đẳng cấp quốc tế
GS.TS Lê Anh Tuấn cho rằng, chuẩn mực chung để trở thành một đại học đẳng cấp quốc tế được cấu thành bởi ba nhóm yếu tố chính, gồm: tài năng (tập trung); nguồn lực tài chính (dồi dào) và quản trị (thuận lợi). Cụ thể:
Tài năng (tập trung): Đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên, người lao động xuất sắc, tài năng chính là tài sản lớn nhất của một cơ sở giáo dục đại học, là động lực cho sự phát triển trên mọi lĩnh vực hoạt động. Sinh viên xuất sắc từ đầu vào cũng như đầu ra chính là giá trị về tri thức quan trọng nhất mà một đại học có thể mang lại cho xã hội và cộng đồng. Trong môi trường quốc tế hóa, tài năng không chỉ hội tụ từ các vùng miền khác nhau của đất nước mà còn đến từ nhiều quốc gia khác nhau.
Nguồn lực tài chính (dồi dào): Nguồn lực tài chính là cơ sở để có khuôn viên hiện đại, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và định hướng khoa học công nghệ. Tài chính cũng là yếu tố đảm bảo và hấp dẫn trong tập trung tài năng. Đối với một đại học đẳng cấp quốc tế, nguồn lực tài chính chủ yếu đến từ ngân sách Nhà nước, kinh phí hiến tặng, học phí và tài trợ nghiên cứu.
Quản trị (thuận lợi): Các Luật và quy chế, quy định liên quan do Nhà nước ban hành tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho đại học phát triển; Cơ chế tự chủ và tự do học thuật là nền tảng cho các quy chế, quy định và quy trình nội bộ được xây dựng và vận hành; Đội ngũ lãnh đạo có khả năng truyền cảm hứng, kiên trì và đặt cao tính cam kết; Tầm nhìn chiến lược và văn hóa xuất sắc.
GS.TS Lê Anh Tuấn nhấn mạnh, sự giao thoa của 3 nhóm yếu tố này tạo ra đại học đẳng cấp quốc tế - WCU (World Class University). Độ giao thoa càng lớn thể hiện tầm ảnh hưởng và giá trị càng cao của sản phẩm đào tạo, sản phẩm nghiên cứu và sản phẩm chuyển giao công nghệ mà đại đóng góp cho khoa học, cho xã hội và cộng đồng.
Đại học Bách khoa Hà Nội đủ yếu tố để trở thành đại học đẳng cấp quốc tế
GS.TS Lê Anh Tuấn khẳng định, Đại học Bách khoa Hà Nội có đủ 3 nhóm yếu tố để trở thành một đại học đẳng cấp quốc tế.
Theo đó, về quản trị thuận lợi, Đại học Bách khoa Hà Nội có hệ thống quản trị được xây dựng trên nền tảng của Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Luật số 34/2018/QH14). Linh hồn của Luật số 34 là cơ chế tự chủ đại học gắn với trách nhiệm giải trình, đặc trưng cốt lõi của nhóm yếu tố Quản trị thuận lợi.
Tại Đại học Bách khoa Hà Nội, bên cạnh Chiến lược phát triển 2017- 2025, tầm nhìn đến năm 2030 được ban hành năm 2017, hệ thống các quy chế, quy định và quy trình nội bộ đã được xây dựng và nhiều lần sửa đổi, tạo thuận lợi và đảm bảo cho các hoạt động quản trị, điều hành được diễn ra theo đúng mục tiêu chiến lược và kế hoạch chiến lược.
Việc chuyển đổi mô hình thành đại học theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ là cơ sở để Đại học Bách khoa Hà Nội tiếp tục quá trình tái cơ cấu và tối ưu bộ máy. Đến tháng 12.2023, bộ máy Đại học Bách khoa Hà Nội gồm 5 Trường, 6 Viện/Trung tâm nghiên cứu, 3 Khoa đại cương, 4 Khoa quản ngành, 1 Văn phòng, 11 Ban, 8 Trung tâm dịch vụ & hỗ trợ và 1 Viện đào tạo đang trong quá trình chuyển đổi thành Trường.
Hệ thống doanh nghiệp BK-Holdings là mảnh ghép quan trọng trong hệ sinh thái đào tạo, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp, khởi nguồn. Mô hình tiên tiến, bộ máy quản trị, điều hành tinh gọn, quản trị theo tiếp cận chia sẻ dựa trên nền tảng số là điều kiện tiên quyết để nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động.
Kiểm định chất lượng đại học, kiểm định chương trình đào tạo theo các chuẩn mực quốc tế, kết hợp với một hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong ngày càng hoàn thiện thể hiện trách nhiệm giải trình ngày càng cao của một cơ sở giáo dục đại học tự chủ.
Về tập trung tài năng, theo GS.TS Lê Anh Tuấn, sinh viên nói riêng và người học nói chung chính là yếu tố trung tâm phản ánh mức độ tập trung tài năng của một cơ sở giáo dục đại học. Trong gần 68 năm phát triển, Đại học Bách khoa Hà Nội luôn là một trong những cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam có chất lượng tuyển sinh đầu vào rất tốt, là nơi hội tụ những tài năng.
Đại học Bách khoa Hà Nội là cơ sở giáo dục đại học có đội ngũ giảng viên, nhà khoa học có chuyên môn giỏi, năng động và uy tín.
"Có thể khẳng định, đội ngũ là điểm mạnh nổi trội của Đại học Bách khoa Hà Nội. Hiện nhà trường có 1.066 giảng viên trong tổng số 1.690 cán bộ viên chức. Trong đó, 76,7% giảng viên có trình độ tiến sĩ - rất cao so với mức trung bình 32,4% của cả nước. Tỷ lệ giảng viên có học hàm giáo sư và phó giáo sư chiếm 25,1%. Những con số này là minh chứng sinh động về sức mạnh của đội ngũ, động lực quan trọng của sự phát triển", GS.TS Lê Anh Tuấn nói.
Bên cạnh đó, Đại học Bách khoa Hà Nội đang nỗ lực thực hiện một số chính sách về thu hút giảng viên xuất sắc, tạo nguồn giảng viên, mạng lưới giảng viên và chuyên gia thân thiết quốc tế. Chủ trương quốc tế hóa đang ở trong giai đoạn đầu với việc triển khai ngày càng thực chất các hoạt động hợp tác với các đối tác nước ngoài ở trong và ngoài Việt Nam. Sự tham gia của một số giảng viên quốc tế vào các chương trình đào tạo Elitech, sự có mặt của sinh viên quốc tế trong các lớp học (dù tỷ lệ còn chưa cao) và các chương trình trao đổi giảng viên, sinh viên là những khởi đầu rất lạc quan.
Nhằm thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và sáng tạo của sinh viên, Đại học Bách khoa Hà Nội mới thành lập Trung tâm Sáng tạo và Khởi nghiệp sinh viên với kỳ vọng sự xuất sắc và sáng tạo của sinh viên sẽ có nhiều cơ hội để được hỗ trợ và nuôi dưỡng, cùng với sự đồng hành của Hệ thống doanh nghiệp BK-Holdings, mạng lưới cựu sinh viên và Quỹ BK-Fund.
Về nguồn lực tài chính, GS.TS Lê Anh Tuấn cho rằng, cần nhìn nhận đây là điểm yếu nhất của các cơ sở giáo dục đại học hiện nay, trong đó có Đại học Bách khoa Hà Nội.
Theo GS.TS Lê Anh Tuấn, đối với các đại học đẳng cấp quốc tế (đặc biệt ở Mỹ), nguồn đầu tư từ quỹ hiến tặng (endowment fund) có thể lên tới hàng chục tỷ USD. Đại học Havard có quy mô quỹ hiến tặng đứng đầu thế giới, với khoảng hơn 50 tỷ USD. Theo báo cáo tài chính công bố năm 2023 của đại học này, trong tổng doanh thu xấp xỉ 6 tỷ USD thì nguồn từ quỹ hiến tặng chiếm 37% (2,2 tỷ USD).
Quỹ hiến tặng thường được hình thành từ các nguồn hiến tặng và kinh phí đối ứng của Nhà nước hoặc của đại học. Tỷ lệ đối ứng mà Đại học Oxford của Anh quốc đưa ra trong chương trình gây quỹ năm 2015 là 2:1 (2 pound từ nhà hiến tặng, đối ứng 1 pound từ quỹ của ĐH). Đáng tiếc, Việt Nam chưa có cơ sở pháp lý để xây dựng quỹ này.
Nguồn kinh phí đến từ tài trợ nghiên cứu và thông qua các hoạt động hợp tác với doanh nghiệp cũng đóng vai trò quan trọng. Thời gian vừa qua, Đại học Bách khoa Hà Nội đã khai thác khá tốt nguồn này, tuy nhiên, vẫn chưa xứng tầm với quy mô một đại học đẳng cấp quốc tế do thực tiễn hợp tác giữa đại học và doanh nghiệp còn nhiều rào cản và hạn chế.
Báo cáo thường niên của Đại học Bách khoa Hà Nội năm 2022 chỉ rõ nguồn học phí chiếm khoảng 53,4% tổng thu khoảng 1.425 tỷ đồng của đại học; nguồn kinh phí tài trợ cho nghiên cứu, hợp tác doanh nghiệp và dịch vụ chiếm 20,1% tổng thu; 26,5% nguồn thu còn lại chủ yếu đến từ kinh phí thuộc dự án SAHEP với nguồn vốn vay từ Ngân hàng thế giới.
"Có thể nói, cơ cấu nguồn thu như trên là khá lý tưởng trong điều kiện hiện nay, mặc dù tỷ trọng nguồn thu từ học phí vẫn là chủ đạo. Trong những năm tới, khi dự án SAHEP đã hoàn thành, tổng thu của toàn đại học sẽ có xu hướng giảm, tỷ trọng nguồn thu từ học phí sẽ tăng lên. Nếu các giải pháp tăng nguồn thu ngoài học phí không được hoặc không có cơ hội thúc đẩy mạnh mẽ", ông nhấn mạnh.
GS.TS Lê Anh Tuấn nhìn nhận, điểm mạnh nhất Đại học Bách khoa Hà Nội có là cơ hội tập trung tài năng. Tuy nhiên, do hạn chế về nguồn lực tài chính và khiêm tốn trong nhóm yếu tố quản trị nên sự giao thoa giữa từng cặp trong 3 nhóm yếu tố thậm chí còn khá mỏng, dẫn tới phần giao thoa của cả 3 nhóm yếu tố hoặc chưa xảy ra hoặc ở mức rất khiêm tốn.
Nguyên nhân chính có thể nhìn nhận bởi hệ thống quy chế quy định của Nhà nước mặc dù đã có nhiều điểm đột phá nhưng chưa thực sự thuận lợi, có những điểm chồng chéo, mâu thuẫn khiến các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam chưa thể vượt qua được; Quy mô tài chính đang phụ thuộc chủ yếu vào học phí. Bên cạnh đó là hạn chế về nguồn lực tài chính, khiến khả năng đầu tư cho phát triển khuôn viên, phát triển cơ sở vật chất hiện đại phục vụ đào tạo và nghiên cứu, việc tập trung tài năng chỉ được phát huy ở một mức độ nhất định.
Thách thức lớn nhất là cơ chế cho phép thu hút nguồn lực tài chính ngoài học phí
Theo GS.TS Lê Anh Tuấn, để hướng đến mục tiêu đại học đẳng cấp quốc tế, thách thức lớn nhất với nhà trường chính là cơ chế cho phép thu hút nguồn lực tài chính ngoài học phí đủ mạnh. Việc chưa có đủ cơ sở pháp lý để xây dựng quỹ hiến tặng, chưa có những chương trình/dự án để Nhà nước đối ứng cho các phần hiến tặng từ cá nhân và doanh nghiệp là một ví dụ điển hình.
"Về hội tụ tài năng, Đại học Bách khoa Hà Nội đã có chính sách thu hút giảng viên xuất sắc, tạo nguồn giảng viên, học bổng, hỗ trợ cho người học. Tuy nhiên, do nguồn lực tài chính hạn chế và thiếu cơ sở pháp lý đủ mạnh nên các chính sách thu hút nhân tài chưa bền vững. Thu hút nhân tài không chỉ bằng lương mà cần phải tạo được môi trường để đảm bảo các nhà khoa học, các sinh viên xuất sắc có cơ hội phát triển", ông nói.
Bên cạnh đó, GS.TS Lê Anh Tuấn cho rằng Nhà nước cần quan tâm điều chỉnh hợp lý các quy định hiện hành về sở hữu đối với sản phẩm nghiên cứu và cho phép giảng viên, nhà khoa học có kỳ dự nhiệm tại doanh nghiệp. Giảng viên tham gia doanh nghiệp là cơ hội để thâm nhập thực tiễn và thúc đẩy hợp tác khăng khít giữa đại học và doanh nghiệp.
"Quy định không cho phép viên chức làm chủ doanh nghiệp hiện đang hạn chế các phát minh, sáng chế có thể khởi nghiệp, khởi nguồn được hoàn thiện sản phẩm, ươm tạo trước khi sản xuất hàng loạt và mang lại giá trị cho xã hội và cộng đồng", GS.TS Lê Anh Tuấn nhấn mạnh.