Trường Chinh làm thơ từ tuổi 30 với bút danh Sóng Hồng. Sinh thời, ông chỉ nhận mình là người cách mạng “thích thơ và biết làm thơ”. “Những bài thơ tôi làm cốt để phục vụ, tuyên truyền cách mạng hoặc để ghi lại một số tình cảm sâu sắc của đời mình”(1). Trong các loại hình nghệ thuật, ông đánh giá rất cao vị trí của thơ, khi cho rằng “Thơ là nghệ thuật kỳ diệu bậc nhất của trí tưởng tượng”(2). Người yêu thơ và thích làm thơ đó cố nhiên rất mê Truyện Kiều. Hồi kháng chiến chống Pháp, ở Việt Bắc, Trường Chinh luôn có một bản Kiều ở bên mình, để thỉnh thoảng ngâm ngợi; và đoạn thơ ông thích nhất là đoạn Kim - Kiều thề thốt dưới trăng. Ông từng có lần bàn về Kiều rất say sưa, suốt đêm với Hoài Thanh; sáng ra khi chia tay vẫn còn níu lại để nói thêm một lúc nữa... Cái sự yêu mến Truyện Kiều và Nguyễn Du này ở Trường Chinh còn được phát triển thêm, đi xa hơn trong dịp kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du, năm 1965. Với tư chất và thiên hướng của nhà lý luận, Trường Chinh có dịp triển khai mạch suy nghĩ và sự khái quát của mình lên tầm một Chủ nghĩa hiện thực phê phán nơi Nguyễn Du.
Người mê Truyện Kiều cũng là người từng đọc, từng sống với phong trào Thơ mới. Cũng ở đây, ta có dịp chứng kiến một tiếp nhận “phức điệu” ở Trường Chinh. Dưới bút danh Sóng Hồng, năm 1942, Trường Chinh có bài Là thi sĩ nổi tiếng, đứng trên quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh để đối thoại và phê phán Xuân Diệu - người từng viết: “Là thi sĩ nghĩa là ru với gió/Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”. Tác giả Là thi sĩ - người chủ trương: “Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ/Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền” quả không chút nhân nhượng và thật rạch ròi trên hai tuyến vị nghệ thuật và vị nhân sinh cũng là người đã nêu một ý kiến nổi tiếng về văn học lãng mạn: “Đối với trào lưu văn nghệ lãng mạn, chúng ta không nên mạt sát, vơ đũa cả nắm, mà cần đi vào phân tích những dòng tiến bộ trong những thời kỳ khác nhau”(3). Từ ý tưởng này, Trường Chinh còn phát triển thành một luận điểm khái quát cho một nhìn nhận văn học sử: “Các tầng lớp tư sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức Việt Nam tìm thấy trong chủ nghĩa lãng mạn một tiếng thở dài chống chế độ thuộc địa”(4). Cái tiếng thở dài này đã trở thành một niềm an ủi cho những ai không “may” thuộc trào lưu lãng mạn. Riêng nhân vật Dũng cùng đám bạn bè đồng chí của anh ta, trong Đôi bạn, Đoạn tuyệt và Thế rồi một buổi chiều của Nhất Linh hẳn được sự chia sẻ nhiều nhất để không bị đẩy vào hệ nhân vật... phản diện. Và chính Tự lực văn đoàn cũng nhận được sự đánh giá công bằng của Trường Chinh: “Hoạt động của nhóm Tự lực văn đoàn cũng đã góp phần đẩy phong trào văn nghệ nước ta tiến lên một bước”(5).
Ngoài Đường lối văn nghệ của Đảng được ông phát biểu trực tiếp như một sự tổng kết vào tháng 12.1968, trong Đại hội văn nghệ toàn quốc (trên miền Bắc) lần thứ IV, các ý kiến như được nêu trên của Trường Chinh phát biểu rải rác trong một thời gian dài, ngót bốn chục năm, từng là cơ sở, là điểm tựa cho giới nghiên cứu, phê bình khi nhìn lại các trào lưu văn học được xem là lãng mạn - cả trong nước và trên thế giới.
***
Nói đến Trường Chinh, còn phải kể đến tư cách một nhà báo - người có một sự nghiệp viết báo sôi nổi từ thời Mặt trận Bình dân (1936-1939); người chủ trì báo Cờ giải phóng, với những bài viết cổ vũ toàn dân xốc tới cao trào Tổng khởi nghĩa thật chấn động và đúng lúc như Nhật- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta... Hoạt động báo chí của Trường Chinh trước 1945 rất phong phú; nhưng nhân thời điểm 2007, tôi muốn trở lại giá trị của riêng tác phẩm Vấn đề dân cày, ông viết cùng Võ Nguyên Giáp (dưới bút danh Qua Ninh và Vân Đình), trong Tủ sách Dân chúng, Nhà xuất bản Đức Cường ấn hành năm 1937, đến nay vừa tròn 70 năm. Cuốn sách có giá trị như một điều tra xã hội học, một phóng sự nhiều kỳ, một bút ký chính luận về các mặt của đời sống nông thôn dưới chế độ phong kiến - thực dân. Cuốn sách với các con số, các mẩu chuyện, các sự kiện nhằm chứng minh tình thế bức xúc hướng tới cách mạng trong tình cảnh người dân cày. Cuốn sách xuất hiện cùng thời với Tắt đèn, Bước đường cùng, Vỡ đê... góp phần làm sáng tỏ một thực trạng xã hội có ý nghĩa tố cáo chế độ phong kiến thực dân; Đồng thời, tạo một nhận thức cơ bản cho sự nghiệp cách mạng dân tộc- dân chủ- nhân dân ở Việt Nam là nơi có trên 95% số dân là nông dân. Vấn đề dân cày, đúng như tên sách, không chỉ là một tiếng kêu bức xúc hướng tới cách mạng, được giải quyết ở thời điểm tháng Tám năm 1945, mà còn là vấn đề xuyên suốt thế kỷ: vấn đề người nông dân tự cải tạo, tự vươn lên trên một tầm mới của cách mạng văn hóa, của cách mạng khoa học kỹ thuật; vấn đề người nông dân cần những hành trang gì để chuyển vào một hình thái xã hội mới, một tình thế lịch sử mới, khi đất nước bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Nói đến nhà báo Trường Chinh, cần phải kể thêm: đó là một người viết luôn có ý thức trau dồi và mong mọi người làm báo, viết văn cũng chăm lo trau dồi về chữ dùng, về câu văn, về ngôn ngữ tiếng Việt; là người từ rất sớm đã viết: Mười tám điều tự răn trong khi viết văn (1947), và Hãy gây một phong trào làm trong sáng lời và văn của chúng ta (1948).
(1) (2) Thơ; NXB Văn học; H., 1967.
(3) Phấn đấu cho một nền văn nghệ dân tộc phong phú... Sách trên; tr.241.
(4) (5) Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam. Sách trên; tr.55; tr.87.
Phong Lê