Vốn tín dụng chính sách góp phần phủ xanh những cánh rừng (Ảnh PV) |
Ngày 21.3 được Đại hội đồng Liên hợp quốc chọn làm Ngày quốc tế về rừng. Đây là dịp để các quốc gia nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của rừng, khuyến khích người dân trong nước có trách nhiệm bảo vệ, bảo tồn và phát triển rừng bền vững.
Hiệu quả từ chương trình dự án phát triển ngành lâm nghiệp
Sau gần 12 năm, tổng dư nợ cho vay dự án phát triển lâm nghiệp do Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đã hỗ trợ NHCSXH triển khai thực hiện đạt gần 500 tỷ đồng, doanh số thu nợ đạt hơn 323 tỷ đồng với hơn 103 nghìn lượt khách hàng vay vốn. Nguồn vốn đến nay đã giúp phủ kín trên 76 nghìn ha rừng trồng sản xuất. |
Từ năm 2005, diện tích rừng Việt Nam đã giảm từ 14,3 triệu ha năm 1943 xuống còn 10,7 triệu ha. Sau hàng thập kỷ rừng bị tàn phá cả nước có 7 đến 8 triệu ha đất rừng không được sử dụng, bị thoái hóa và trở thành đồi trọc. Khoảng 25 triệu người nghèo và người dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng. Rừng cung cấp nguồn sinh kế, năng lượng và là nguồn cứu đói khi khó khăn. Cùng với việc đất rừng bị thoái hóa, đa dạng sinh học bị mất đi thì đòi hỏi về sản phẩm lâm nghiệp phục vụ sinh hoạt và công nghiệp lại tăng lên do dân số tăng nhanh và kinh tế phát triển. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu, thiên tai, lũ lụt, nghèo đói...
Để giải quyết những thách thức đó, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đã hỗ trợ NHCSXH triển khai thực hiện dự án phát triển ngành lâm nghiệp nhằm giúp cho các hộ gia đình ở các tỉnh miền Trung Việt Nam vay vốn và hỗ trợ kỹ thuật để trồng rừng nhằm cải thiện sinh kế, giảm nghèo bền vững, góp phần bảo vệ thiên nhiên, môi trường và chống biến đổi khí hậu.
Đây là một dự án cho vay trồng rừng thương mại đầu tiên tại Việt Nam do Ngân hàng Thế giới tài trợ, với 2 trọng tâm chính là: Phát triển trồng rừng sản xuất ở một số tỉnh miền Trung Việt Nam và bảo tồn thiên nhiên. Dự án được triển khai tại 6 tỉnh: Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Thanh Hóa, Nghệ An từ năm 2005.
Dự án đã có tác động tích cực về nhiều mặt bao gồm phát triển kinh tế - xã hội, môi trường và ngành lâm nghiệp. Hoạt động của dự án cũng đã có đóng góp tích cực vào thực hiện chiến lược tăng trưởng toàn diện và giảm nghèo của Việt Nam. Mặt khác dự án đã tạo ra mô hình quản lý phát triển rừng bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học, qua đó đẩy mạnh bảo vệ môi trường, cải thiện sinh kế của người dân sống phụ thuộc vào rừng và đẩy mạnh đóng góp của lâm nghiệp vào nền kinh tế...
Là người dân được hưởng lợi từ dự án, năm 2005 gia đình ông Cao Dựa ở Xã Xuân Lộc, Huyện Phú Lộc, Tỉnh Thừa Thiêu Huế cho biết: “Trước đây gia đình tôi thuộc diện hộ nghèo, quanh năm phải làm thuê, làm mướn cũng chẳng đủ ăn. Nhưng từ khi gia đình tôi được tiếp cận với đồng vốn tín dụng chính sách của Chính phủ thông qua NHCSXH, cụ thể là chương trình cho vay Dự án phát triển ngành lâm nghiệp để trồng 4,2 ha rừng. Sau 5 năm kể từ khi vay vốn của dự án chúng tôi đã có thu nhập 90-100 triệu đồng mỗi ha sau khi đã trừ đi chi phí cây giống, phân bón, lãi suất. Chúng tôi đã trả hết nợ cho NHCSXH và còn đủ tiền xây nhà mới và mua sắm đồ dùng thiết yếu và con cái học hành đến nơi đến chốn.
“Đến nay, đây là dự án đầu tiên, và cũng là dự án duy nhất ở Việt Nam cung cấp tín dụng ưu đãi cho các hộ nghèo trồng rừng, là hình thức được chứng minh bền vững hơn so với phương pháp truyền thống trợ cấp hoạt động trồng rừng,” bà Nguyễn Thị Thu Lan, Chuyên gia Cao cấp về Môi trường của Ngân hàng Thế giới, Chủ nhiệm dự án cho biết.
Dự án đã góp phần cải thiện đời sống kinh tế - xã hội của người dân, xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động, tạo nguồn thu nhập và phát triển kinh tế hộ gia đình. Đồng thời, dự án góp phần bảo vệ môi trường, tăng độ che phủ rừng thông qua hoạt động trồng rừng, cải thiện chất lượng đất và giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động nông nghiệp và chống biến đổi khí hậu.
Cũng tại Hội nghị tổng kết Dự án Phát triển ngành lâm nghiệp, Bà Victoria Kwakwa, cựu Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam chia sẻ: “Tôi hy vọng rằng những bài học kinh nghiệm hay của dự án này sẽ được nhân rộng, nhờ thế nhiều hộ gia đình Việt Nam sẽ được tiếp cận đến tín dụng cũng như những phương pháp trồng rừng hiện đại.”
Theo Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, mặc dù dự án kết thúc vào tháng 3.2015 nhưng Quỹ quay vòng do NHCSXH quản lý sẽ tiếp tục vận hành thêm 20 năm nữa. Vì vậy, rất nhiều hộ gia đình sẽ còn được tiếp cận đến nguồn tín dụng này.
Cùng với đó, NHCSXH hiện đang bắt đầu triển khai chương trình cho vay hộ nghèo, hộ dân tộc thiểu số trồng rừng sản xuất, phát triển chăn nuôi theo Nghị định số 75/2015/NĐ-CP ngày 9.9.2015 của Chính phủ nhằm mục tiêu bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 – 2020. Theo đó, đối tượng vay vốn trồng rừng sản xuất là hộ đồng bào dân tộc thiểu số (không phân biệt giàu nghèo), hộ gia đình người Kinh nghèo đang sinh sống ổn định tại các xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (khu vực II và III) thuộc vùng dân tộc và miền núi theo quy định hiện hành của Thủ tướng Chính phủ, có thực hiện một trong các hoạt động bảo vệ rừng và phát triển rừng được vay vốn từ NHCSXH để trồng rừng, chăn nuôi với lãi suất 1,2%/năm.
Chương trình này sẽ tạo ra bước đột phá giúp cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số vay vốn, phát triển ngành nghề dịch vụ nông lâm trường trong đó ngoài phần vốn vay còn được Nhà nước hỗ trợ cho phương thức đầu tư, cấp đất để đầu tư và có đầu ra cho sản phẩm của hộ dân. Điều này sẽ mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần đáng kể vào việc phát triển kinh tế hộ gia đình nói chung và hộ đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng, nâng cao chất lượng cuộc sống, làm chuyển biến nhận thức, cách thức làm ăn cho hộ dân tộc thiểu số, đặc biệt là đối với các địa bàn của huyện nghèo, vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
Tuy nhiên khó khăn lớn nhất hiện nay là thiếu nguồn vốn để thực hiện chương trình này. Do ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp, trong năm 2015 và 2016, một số chương trình tín dụng chính sách dành cho hộ dân tộc thiểu số do NHCSXH thực hiện chưa được cấp vốn đủ và kịp thời. Mong sao, các cấp chính quyền bộ ngành, địa phương quan tâm hỗ trợ nguồn vốn cho NHCSXH để kịp thời cho vay, từ đó mới đáp ứng được lòng mong mỏi của hộ vay, giúp hộ đồng bào dân tộc thiểu số an tâm, mạnh dạn vay vốn làm ăn, phát triển sản xuất làm giàu trên chính quê hương của mình, hạn chế việc di dân, cũng như một số tệ nạn xã hội... của tình trạng người dân bỏ làng, bỏ thôn đi làm ăn xa.
Định hướng phát triển tín dụng xanh
Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia chịu tác động nhiều nhất của biến đổi khí hậu. Tác động của biến đổi khí hậu đe dọa tới tiến trình xóa đói giảm nghèo, thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững của đất nước. Do đó, tăng trưởng xanh chính là phương thức thúc đẩy quá trình tái cơ cấu kinh tế theo định hướng sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, góp phần giảm nghèo và tạo động lực tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững.
Một trong những mắt xích quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh là hệ thống tài chính ngân hàng. Theo đó, hệ thống ngân hàng sẽ quyết định nguồn vốn đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các khu vực kinh tế hoạch định nhằm phát triển kinh tế bền vững. Vì thế, các chính sách tín dụng xanh là giải pháp quan trọng hướng nền kinh tế tới mục tiêu tăng trưởng xanh.
Từ năm 2012, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành hoạt động tín dụng theo hướng mở rộng tín dụng gắn với hiệu quả và ưu tiên đầu tư vốn tín dụng vào các lĩnh vực, dự án hỗ trợ TTX. Nhận thức được tầm quan trọng của tín dụng xanh, Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 24.3.2015 về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng chỉ rõ, hoạt động cấp tín dụng của ngành ngân hàng cần chú trọng đến vấn đề bảo vệ, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, năng lượng; cải thiện chất lượng môi trường và bảo vệ sức khỏe con người, đảm bảo phát triển bền vững.
Như vậy có thể thấy, chính sách tín dụng “xanh” của NHCSXH đang là điểm tựa vững chắc, góp phần bảo tồn thiên nhiên và phát triển sinh kế cho người dân hướng nền kinh tế tới mục tiêu tăng trưởng xanh.