Thiếu quy định ràng buộc trách nhiệm của cơ quan nhà nước
Thống nhất cao với sự cần thiết phải sửa đổi Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, các đại biểu Quốc hội (ĐBQH) nhấn mạnh, chúng ta cần tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân người lao động Việt Nam có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, nhưng phải bảo vệ kịp thời, hỗ trợ người lao động Việt Nam khi làm việc ở nước ngoài trong xu thế chuyển dịch lao động quốc tế, lao động di cư và rủi ro phức tạp khó lường (như chiến tranh, suy thoái, kinh tế toàn cầu, dịch bệnh Covid - 19…).
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thi Kim Ngân phát biểu tại phiên họp tổ |
Ảnh: Quang Khánh
Chiếu theo quan điểm đó, liên quan đến chính sách của Nhà nước về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Điều 4, dự thảo luật, một số đại biểu chỉ rõ, chính sách còn thiếu tính khả thi, tính trọng tâm, trọng điểm của chính sách chưa cao. Theo ĐBQH Phan Viết Lượng (Bình Phước), chính sách bảo vệ người lao động thông qua sự đầu tư, quan tâm của nhà nước, tư vấn về kỹ năng, khuyến khích các đơn vị đưa người Việt Nam ra nước ngoài theo hướng lựa chọn trình độ kỹ thuật cao, lựa chọn thị trường chưa được chú trọng. Chúng ta mới quan tâm nhiều đến thị trường truyền thống, nhưng ở những thị trường này, thu nhập của người lao động Việt Nam cũng thấp hơn so với người lao động ở nước khác. Chúng ta rất cần chính sách cụ thể hơn về nâng cao thu nhập cho người lao động, mở rộng tìm kiếm thị trường cho người lao động, bảo vệ người lao động.
Chỉ ra chính sách đối với người lao động khi hết hạn hợp đồng về nước cũng chưa thích đáng, ĐB Phan Viết Lượng nêu rõ nhiều người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài về không phát huy được kỹ năng, tay nghề đã học, phải chuyển sang công việc khác. Vậy chúng ta có chính sách gì để khuyến khích phát huy kỹ năng, kinh nghiệm của người lao động hậu đi làm việc ở nước ngoài?
Một số đại biểu cho biết thêm, dự thảo Luật đề cập chưa đúng mức về trách nhiệm của các tổ chức, cơ quan, đơn vị có liên quan đến việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Nhiều bất cập, hệ lụy từ việc người lao động Việt Nam đi lao động ở nước ngoài, nhất là sự vụ 39 người Việt Nam thiệt mạng khi đi lao động trái phép trong xe tải ở Anh đã cho thấy lỗ hổng trong quản lý nhà nước từ việc theo dõi, kiểm tra, xử lý nắm thông tin của việc đưa lao động chui ra nước ngoài. Chúng ta thiếu quy định ràng buộc, nâng cao trách nhiệm, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước, trách nhiệm của các đơn vị đưa người lao động đi nước ngoài. Nhà nước cần yêu cầu các đơn vị đưa người lao động đi nước ngoài phải công khai, minh bạch thông tin từ khi tiếp cận, lựa chọn, cung ứng lao động, quá trình lao động ở nước ngoài ra sao? Quy định rõ trách nhiệm thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm minh đối với các đơn vị đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức bất hợp pháp.
Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai, Lào Cai, Vĩnh Long thảo luận tại tổ |
Ảnh: Quang Khánh
Ngừng cung cấp dịch vụ điện, nước không phải là biện pháp cưỡng chế?
Nhiều ĐBQH quan tâm về bổ sung biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Theo đó, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính bổ sung biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt hành chính là “ngừng cung cấp các dịch vụ điện, nước tại địa điểm vi phạm đối với cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ vi phạm”.
Cho rằng biện pháp này phải là biện pháp ngăn chặn, ĐBQH Trần Hồng Hà (Vĩnh Phúc) cho biết, điện, nước là nhu cầu thiết yếu của mọi người, là “nguyên liệu” quan trọng của hoạt động sản xuất, kinh doanh nên việc ngừng cung cấp dịch vụ điện, nước như một biện pháp cưỡng chế để buộc cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải thực hiện quyết định xử phạt (nộp tiền phạt) là chưa phù hợp, không tương xứng, làm ảnh hưởng lớn đến cuộc sống, hoạt động sản xuất, kinh doanh của cá nhân, tổ chức, nhất là khi điện, nước không phải là công cụ, phương tiện vi phạm. Hơn nữa, Điều 21, Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành đã quy định nhiều biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính có tính “trực tiếp” để thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Ở góc độ khác, ĐBQH Lã Thanh Tân (Hải Phòng) nêu quan điểm, quy định ngừng cung cấp các dịch vụ điện nước là biện pháp cưỡng chế sẽ bảo đảm nguyên tắc mọi hành vi phạm phải được ngăn chặn kịp thời, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng trái phép, sử dụng biện pháp cưỡng chế này sẽ có hiệu quả thiết thực.
Nhiều ý kiến đề nghị cân nhắc quy định “áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi”. Bởi lẽ, theo Luật Trẻ em năm 2016, trẻ em nghiện ma túy được xác định là nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, cần có sự hỗ trợ, can thiệp đặc biệt của Nhà nước, gia đình và xã hội để được an toàn, hòa nhập gia đình, cộng đồng. Do đó, việc cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc dành riêng cho họ trong trường hợp cần thiết đối với người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy là phù hợp, vì đây không được coi là biện pháp xử lý hành chính, không dẫn đến có “tiền sự” trong lý lịch tư pháp có thể ảnh hưởng tiêu cực tới tương lai phát triển của trẻ em và người chưa thành niên, phù hợp với nguyên tắc bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em theo Luật Trẻ em và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Các ĐBQH Trần Hồng Hà (Vĩnh Phúc), Nguyễn Hữu Chính (TP Hà Nội) cho biết thêm, đối với người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi nghiện ma túy thì áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là không phù hợp. Bởi trường giáo dưỡng không phải cơ sở cai nghiện, không có chức năng chữa bệnh, cai nghiện ma túy. “Để các cháu không nghiện nữa, thì nên cân nhắc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc giáo dục tại nhà, phường xã”, ĐB Nguyễn Hữu Chính nhấn mạnh.
Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Điện Biên, Khánh Hòa, Long An thảo luận tại tổ |
Ảnh: Quang Khánh
Không nên mở rộng chủ thể ký kết thỏa thuận quốc tế đến cấp xã
Liên quan đến dự án Luật Thỏa thuận quốc tế, các đại biểu nhất trí chủ trương mở rộng chủ thể ký kết thỏa thuận quốc tế về phía Việt Nam để phù hợp với chủ trương hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới. Cũng có ý kiến không nên mở rộng ký kết thỏa thuận quốc tế vì vấn đề này liên quan đến quyền, nghĩa vụ và chủ quyền quốc gia. ĐBQH Nguyễn Lâm Thành (Lạng Sơn) đề nghị, Chính phủ cần có báo cáo đánh giá thời gian qua đã có bao nhiêu thỏa thuận quốc tế được ký kết, hiệu quả như thế nào. Tổng kết việc ký thỏa thuận quốc tế theo phân loại từng cấp, bên cạnh đó, cần làm rõ loại hình nào ký thỏa thuận nào, cấp nào ký thế nào, tránh trường hợp ký thỏa thuận quốc tế vượt cấp.
Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Nam, Bắc Ninh, Bến Tre, Phú Thọ thảo luận tại tổ |
Ảnh: Quang Khánh
Một số đại biểu cho rằng, nên cân nhắc việc mở rộng chủ thể ký kết thỏa thuận quốc tế đến UBND xã, bởi lẽ các xã biên giới thường có nhu cầu ký kết thỏa thuận quốc tế cao hơn, trong khi đó, hợp tác quốc tế luôn tiềm ẩn những vấn đề nhạy cảm về chính trị, đối ngoại, quốc phòng, an ninh đòi hỏi cơ quan, tổ chức tham mưu và chủ thể ký kết phải có năng lực nhất định, do đó không phải cơ quan, tổ chức nào cũng được trao quyền ký kết thỏa thuận quốc tế.
Theo ĐBQH Đôn Tuấn Phong (An Giang), mở rộng chủ thể ký kết thỏa thuận quốc tế xuống cấp xã cũng tạo thêm thủ tục hành chính, vì chúng ta phải chuyển dự thảo thỏa thuận này để lấy ý kiến cấp huyện, tỉnh, bộ, ngành, Chính phủ xem xét.