Cung cấp thông tin tin cậy trong quyết định dự toán ngân sách
Trong nhiều năm qua, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) đã chủ động thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước (NSNN), trong đó tập trung vào báo cáo kiểm toán tài chính để giúp Quốc hội phê chuẩn quyết toán NSNN và HĐND các cấp phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương. Thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN đã cung cấp thông tin giúp cho Ủy ban Tài chính - Ngân sách và các Ủy ban của Quốc hội sử dụng trong quá trình thẩm tra và giám sát về quyết toán NSNN.
Theo đó, báo cáo kết quả kiểm toán quyết toán NSNN hàng năm đã chỉ ra những hạn chế và kiến nghị xử lý tài chính nhiều vi phạm trong lĩnh vực tài chính, ngân sách, bao gồm cả những hạn chế trong việc lập, phân bổ, giao dự toán NSNN. Những đóng góp tích cực của KTNN là rất có giá trị nhằm cung cấp thông tin, số liệu, tài liệu có độ tin cậy cao để giúp Quốc hội quyết định dự toán NSNN, phân bổ ngân sách trung ương và phê chuẩn quyết toán NSNN; HĐND các cấp quyết định dự toán, phân bổ và phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương.
Đặc biệt, khuôn khổ pháp lý về KTNN không ngừng được hoàn thiện đã thúc đẩy vai trò ngày càng cao của KTNN. Từ sau khi Luật KTNN và Luật NSNN được ban hành, Tổng Kiểm toán nhà nước đã có ý kiến trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự toán NSNN và phương án phân bổ ngân sách trung ương hàng năm. Đồng thời, KTNN cũng đã có ý kiến chính thức bằng văn bản về dự toán NSNN và phương án phân bổ ngân sách trung ương hàng năm, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội và gửi Ủy ban Tài chính - Ngân sách sử dụng trong quá trình thẩm tra.
Sự tham gia của KTNN đã cung cấp những thông tin cần thiết cho việc thẩm tra dự toán NSNN tại các Ủy ban của Quốc hội và hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND. Ý kiến nhận xét, đánh giá, xác nhận của KTNN về các vấn đề tồn tại trong quá trình lập dự toán, chấp hành dự toán và quyết toán NSNN là những tài liệu quan trọng cung cấp cho cơ quan dân cử để thảo luận, thẩm tra và xem xét quyết định dự toán và phê chuẩn quyết toán NSNN.
Quốc hội cần đề cao vai trò của KTNN trong phối hợp thẩm tra dự toán
Bên cạnh những kết quả tích cực, thực tiễn cho thấy, các ý kiến tham gia đóng góp của KTNN đối với dự toán NSNN hàng năm còn hạn chế, nhất là về mức độ hợp lý của từng chỉ tiêu thu, chi ngân sách, tính chính xác của số liệu, cũng như địa chỉ các khoản thu, chi NSNN không hợp lý của năm hiện hành và năm kế hoạch.
Điều này xuất phát từ một số nguyên nhân, như công tác lập dự toán ngân sách ở địa phương còn nhiều hạn chế. Hầu hết các tỉnh, thành phố lập dự toán số thu thấp, số chi cao, dẫn đến địa phương vượt dự toán thu khá lớn, trong khi nhiều khoản chi vượt dự toán (cá biệt có địa phương chi vượt đến 200% dự toán). Mặt khác, thời gian thẩm tra dự toán và quyết toán NSNN còn quá ngắn do tài liệu của Chính phủ gửi cho KTNN và cơ quan thẩm tra chậm, gây khó khăn cho việc thẩm tra, đánh giá, cho ý kiến.
Từ thực trạng trên, để nâng cao hơn nữa chất lượng, vai trò của KTNN đối với việc xây dựng dự toán và quyết toán NSNN, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, cần quy định cụ thể về cơ chế phối hợp, trách nhiệm, quyền hạn của KTNN trong quá trình tham gia thẩm tra dự toán NSNN, phân bổ ngân sách trung ương và phê chuẩn quyết toán NSNN hàng năm. Đồng thời, cần cụ thể hóa cơ chế phối hợp giữa Ủy ban Tài chính - Ngân sách với KTNN theo hướng: Ủy ban Tài chính, Ngân sách nêu ra các vấn đề Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quan tâm, tổ chức giám sát việc triển khai thực hiện. Từ đó, KTNN cần tập trung làm rõ để phục vụ yêu cầu của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chẳng hạn, giám sát về đầu tư công thì KTNN cần cung cấp thông tin thất thoát bao nhiêu, ở khâu nào, số kinh phí thất thoát bằng bao nhiêu % so với tổng mức vốn đầu tư, có bao nhiêu công trình kém hiệu quả trên tổng số các công trình đầu tư công...
Hai là, qua kết quả kiểm toán một số năm liền kề, KTNN cần cung cấp thông tin và đánh giá tình hình thực hiện dự toán NSNN năm hiện hành trên cơ sở một số nội dung như: kết quả đạt được về thu, chi; quản lý và điều hành NSNN của các bộ, ngành, địa phương; các chỉ tiêu ước thực hiện thu, chi đã sát thực tế và hợp lý chưa? Những vướng mắc, nguyên nhân và khả năng hoàn thành dự toán (trong đó phân tích sâu những tồn tại và khả năng tăng thu ở các lĩnh vực, các khu vực kinh tế; những lĩnh vực chi vượt dự toán, chi không đạt dự toán, mức độ tăng chi quản lý hành chính...). Đồng thời, kiến nghị giải pháp điều hành NSNN trong năm hiện hành và năm kế hoạch.
Ba là, qua kết quả kiểm toán, cần đánh giá những yếu tố thụân lợi, không thụân lợi tác động đến dự toán NSNN năm sau. Trong đó, cần đánh giá: dự toán thu, chi theo báo cáo của Chính phủ đã hợp lý chưa, cần tăng, giảm ở những khoản thu, khoản chi nào; tình hình nợ đọng thuế, trốn thuế và khả năng thu hồi; cơ sở, căn cứ và tính hợp lý của phương án phân bổ ngân sách trung ương; kiến nghị giải pháp trong quản lý, điều hành NSNN hàng năm.
Bốn là, cơ quan KTNN cần nâng cao tính độc lập, khách quan, có đủ thời gian xem xét và tham gia ý kiến về dự toán NSNN, thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán NSNN hàng năm trước khi trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. Quốc hội cần đề cao vai trò của KTNN khi tham gia phối hợp thẩm tra dự toán NSNN, phương án phân bổ ngân sách trung ương; cung cấp thông tin kiểm toán báo cáo quyết toán NSNN hàng năm để trình Quốc hội phê chuẩn quyết toán NSNN và HĐND phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương.
Năm là, các cơ quan của Chính phủ cần kịp thời báo cáo cung cấp thông tin về dự toán và phê chuẩn quyết toán NSNN cho các cơ quan có nhiệm vụ thẩm tra, bảo đảm tính đầy đủ, kịp thời, đúng quy định của pháp luật. Bởi quá trình này đòi hỏi có nhiều thông tin, về nhiều vấn đề, trên nhiều lĩnh vực như: thực trạng kinh tế - xã hội của từng địa phương, đơn vị kinh tế, từng ngành, từng vùng, từng lĩnh vực; tình hình thực hiện ngân sách của từng bộ, cơ quan trung ương và từng địa phương; số liệu về tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu có liên quan, quy định về chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức, khả năng thu ngân sách; nhu cầu vốn đầu tư phát triển và thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước. Đối với chi đầu tư phát triển, cần phải căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch, danh mục công trình, dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt; nhiệm vụ cụ thể của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương và các tỉnh, thành phố; thực trạng nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia, nghĩa vụ trả nợ theo từng năm...
Những thông tin này rất quan trọng, là cơ sở căn cứ để KTNN đánh giá, cho ý kiến về dự toán và quyết toán NSNN cũng như phục vụ Ủy ban Tài chính - Ngân sách trong quá trình thẩm tra.